Chủ nghĩa nhân đạo trong nền văn học từ nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm văn học

chu-nghia-nanda-trong-xóm-van-hoc-tu-nua-cuoi-the-ky-xviii-van-dau-the-ky-xix-qua-mot-so-tac-pham-van-hoc

Chủ nghĩa nhân văn trong văn học nửa sau thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm văn học

Chủ nghĩa nhân văn là một trong những truyền thống trí tuệ lớn của văn học Việt Nam trong trường kỳ lịch sử lâu dài. Truyền thống này từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 19 được phát huy mạnh mẽ thành một trào lưu văn học, thu hút hàng loạt văn nhân dũng cảm và tài năng: Fan Tai, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. , Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ…

Hiện tượng này có cơ sở xã hội và lịch sử của nó. Nó phản ánh một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử của đất nước làm rung chuyển hệ thống phong kiến ​​của Việt Nam. Đó là thời kỳ diễn ra những cuộc tranh giành quyền lực đẫm máu và lâu dài giữa các tập đoàn phong kiến ​​Lê-Trịnh, Trịnh-Nguyễn. Đây cũng là thời kỳ các cuộc khởi nghĩa của nông dân liên tục nổ ra ở các nơi, mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Anh em Tây Sơn, quét sạch các tập đoàn phong kiến ​​trong và ngoài, đồng thời tiêu diệt các vương hầu. Triều đại Tây Sơn không tồn tại lâu. Nhà Nguyễn cuối cùng nắm chính quyền. Chúng muốn đưa nước ta trở lại chế độ phong kiến ​​thối nát, phản động, nhưng không thể vì thế mà chấm dứt khủng hoảng xã hội.

Những biến động trên tất nhiên đã dẫn đến sự khủng hoảng sâu sắc về hệ tư tưởng phong kiến. Đây là thời kỳ mà kỷ cương, đạo đức phong kiến ​​mất hết sự tôn nghiêm. Thực tế có rất nhiều bằng chứng để nói, đạo tôi, thầy trò. Cha con, vợ chồng, anh em bị bán rẻ vì tư lợi bẩn thỉu (xem Huang Liri Tongzhi của phe Wu Jiawen, bài Wu Zhong của Fan Tinghe…). Đứng trước thực trạng đó, người dân mới nhận ra rằng, cái gọi là Tam quốc ngũ luân và đạo đức phong kiến ​​ngự trị đời sống tinh thần của nhân dân bấy lâu nay chỉ là giả dối, phi tự nhiên và phi tự nhiên. Đồng thời, khởi nghĩa nông dân chống áp bức, bóc lột càng làm cho mọi người thấy cần phải quan tâm đến số phận con người, quyền sống và hạnh phúc, đấu tranh giải phóng con người. Đây chính là cội nguồn của ý thức phong trào nhân đạo chống phong kiến ​​thổi vào đời sống văn học nước ta như một cơn gió mạnh cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học giai đoạn này trước hết thể hiện ở sự lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến ​​thối nát, tàn bạo. Những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của thời kỳ này có thể nói là những bản án khác đối với chế độ phong kiến ​​ở một số khía cạnh.

Tham Khảo Thêm:  Làm sáng tỏ nhận định: Những chiếc bình đẹp nhất. Nặn từ đất bình thường. Như câu thơ đẹp nhất. Từ những chữ bình thường...

thơ ca vợ lẽ Bản dịch của Đặng Trần Côn cũng như bản dịch của Đoàn Thị Điểm thực chất là một bản án oán hận, đổ lỗi cho chiến tranh phong kiến ​​đã làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi đã trải qua biết bao cuộc chiến tranh. “Tuổi trẻ nở như hoa”. Thỉnh thoảng Lời Than Khóc của Kẻ Chinh Phục vang lên, với một giọng phẫn nộ chói tai:

“Xanh ấy đậm nhạt hơn nhau
Vì ai mà trách! “

(Chánh ngâm khúc – Đặng Trần Côn)

cung oán hận Còn câu của Nguyễn Gia Thiều thì khác, lên án thói ăn chơi trác táng của vua và hoàng hậu, đã nguyền rủa nhiều cung phi thời trẻ phải sống cô độc. Sống trong Tử Cấm Thành chẳng khác gì góa phụ:

“Trời buồn vì trăng tà, quan trọng là ai?
Hoa buồn, ai thấy?
(…)
Chúa đi đâu, Chúa ơi,
Đột nhiên, hóa ra là người chết … “

(Công ngâm ngâm – Nguyễn Gia Thiều)

Sự phẫn uất đôi khi lên đến đỉnh điểm trong thái độ nảy lửa của các cung nữ:

” đưa tay cắt đứt sợi tơ hồng
Tôi tức đến mức muốn tống cổ ra khỏi phòng”

(Công ngâm ngâm – Nguyễn Gia Thiều)

Nhận định của Hồ Xuân Hương mạnh mẽ và rõ ràng hơn. Nhà thơ dường như muốn vứt bỏ một quan niệm đạo đức đối lập với đạo đức phong kiến;Diva chỉ trích mạnh mẽ chế độ đa thê (Hợp lý)ngang nhiên bênh vực bà bầu không chồng (chưa lập gia đình nhưng đang mang thai), Lên án quan niệm trọng nam khinh nữ, ăn tát “Quân thánh” Đây là linh hồn và bộ mặt cao quý của chế độ phong kiến, phơi bày bản chất đê tiện và đạo đức giả của chúng (Đánh một học trò dốt, Phan Vịnh, Đèo Ba Dội, Miếu Sầm Nghi Đống…)

nhưng rộng rãi và toàn diện nhất kiệt tác Nguyễn Du. Đời trôi nổi qua Kiều. Nhà thơ đã tố cáo sự đày đọa của xã hội phong kiến ​​đối với các bậc nho sĩ tài giỏi và các cung nữ xinh đẹp. Đã phá hỏng hạnh phúc của cặp đôi tuyệt vời này. Đôi trai tài gái sắc. Một xã hội thối nát đến mức tiền có thể mua được mọi thứ, dù là sự thật hay công lý:

“Có xu
Dù lòng đổi từ trắng thành đen, cũng khó. “

“Thật là một ngày kỳ lạ
Cuộc sống của con người được tạo ra vì tiền! “

( Sở Kiều truyện – Nguyễn Du)

Một xã hội đầy những quan chức độc ác, côn đồ và kẻ buôn người Ho Tung Hyun, “Họ Tấn”, là Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạch Hành, Sở Khanh, Chó Ưng. Chó Phê.Một bầy trâu mặt ngựa đào hố giăng bẫy đẩy Kiều tiểu thư vào “Từ thảm họa đến thảm họa”:

“Hãy để cuộc sống đầy đau khổ
Đây là kết thúc của cuộc sống. “

( Sở Kiều truyện – Nguyễn Du)

Tham Khảo Thêm:  Tư tưởng nhân đạo trong truyện ngắn Đời thừa (nam Cao và Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

Những người phụ nữ nhục nhã nhất trong xã hội đó vì họ phải chịu đựng nhiều tầng lớp áp bức hơn hầu hết mọi người. Nguyễn Du đã nhiều lần nói:

“Nỗi đau của phụ nữ!
Yến Nhân cũng cùng chung số phận…”

( Sở Kiều truyện – Nguyễn Du)

Ở khía cạnh thứ hai, chủ nghĩa nhân văn chống phong kiến ​​thể hiện ở thái độ tôn trọng con người, không phải xuất phát từ những chuẩn mực đạo đức phong kiến ​​mà từ sự phát hiện những phẩm chất, vẻ đẹp của con người. Các quan điểm đạo đức và thẩm mỹ của chế độ phong kiến.

Bài viết của Trương Quỳnh Như Chẳng hạn, tác phẩm của Fan Tai có thể coi là lời than thở “ăn năn” đau lòng của tác giả về cái chết của người tình tài hoa, xinh đẹp ở “tuổi trăng hoa”. Giáo phái là vô nhân đạo. Điều này cũng đúng với câu chuyện của Kiều, trong đó Ruan Du dành những bài thơ trân trọng nhất của mình để ca ngợi tài năng và vẻ đẹp của Cui Qiao, và sự dũng cảm của Du Hai, hoàn toàn trái ngược với đạo đức thông thường của Khổng Tử và Mạnh Tử. Hồ Xuân Hương sử dụng những nét vẽ táo bạo để miêu tả người phụ nữ trẻ trung và xinh đẹp trong những bài thơ của mình khiếu nại chống lại phụ nữ ĐƯỢC RỒI Ngày đi ngủ của bé gái:

“Chiếc lược tre cài tóc
Yếm đào dưới rồng…”

(Cô gái ngủ ngày – Hồ Xuân Hương)

Cao Bạt Quát cũng thể hiện một tư duy khá cởi mở khi ghi lại hình ảnh người phụ nữ phương Tây âu yếm người chồng mà ông gặp trong một chuyến đi truyền giáo. (Phúc Dương)

Đối lập với quan niệm phong kiến ​​không coi trọng cá tính riêng, văn học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã cho ra đời hàng loạt cá tính dũng cảm, tự cao tự đại, điển hình như Fan cuồng và lãng mạn. Tai, và He Chunxiang hóm hỉnh ngang bướng, Like Cao Baju, Ruan Gongchu tốt bụng, v.v.

Biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo chống phong kiến ​​là lời kêu gọi giải phóng con người, đấu tranh đòi quyền sống, quyền nhân phẩm và hạnh phúc. Văn học Việt Nam cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đã mạnh dạn phát huy tinh thần này. Trước hết, nó đòi hỏi sự giải phóng tình cảm con người, đặc biệt là quan hệ yêu đương nam nữ. Mối tình say đắm của Fan Tai-Zhang Qiongru và nỗi đau vợ chồng chia ly và cái chết là tiếng kêu đau đớn của những chàng trai và cô gái trẻ vì quyền tự do tình yêu:

Tham Khảo Thêm:  Những yếu tố mới mẻ qua thi phẩm Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu

“Tiểu thư! Buồn nôn là vì cái gì? Làm sao vậy? Đến xuân hoa nở, thu trăng tròn!”

(.) Ta khao khát lương thiện vì ta chờ đợi tình yêu lay lắt số phận: ta khao khát thân xác người con gái vì giận hờn thân phận.

Cho đến khi hoa và lá rụng. Ngọc vỡ, ngọc chìm, đắng cay vì đâu hơi ấm? “

(Nhà văn Trương Quỳnh Như)

Cần lưu ý rằng đối với xã hội phong kiến, quyền tự do yêu đương giữa nam và nữ không chỉ là vấn đề quan hệ giữa các cá nhân và hạnh phúc cá nhân, mà còn là sự tấn công trực tiếp vào tôn giáo, chế độ phong kiến, nền tảng của trật tự xã hội phong kiến. Với cách hiểu này, người ta có thể đánh giá cao việc Nguyễn Du “chống trộm-dũng cảm ca ngợi Kim Kiều mới yêu tự do.” tinh thần ấy được đẩy lên cao độ khi ca ngợi Từ Hải, người đã nổi dậy chống lại chế độ phong kiến:

“Fengchen mài một thanh kiếm,
Đúng là một phường giả tạo! “

( Sở Kiều truyện – Nguyễn Du)

Không có gì mạnh mẽ hơn những bài thơ của He Chunxiang trong việc đấu tranh cho quyền sống và quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của phụ nữ. Trái ngược với quan niệm phong kiến ​​gia trưởng, nữ nghệ sĩ không đặt mình ngang hàng mà đứng trên nam giới:

Nhìn kỹ bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đang đổ nát!
Vì điều này, tôi có thể thay đổi cuộc sống của mình để trở thành một cậu bé,
Vậy, thế nào là anh hùng!

(Chùa Tam Nghĩa – Hồ Xuân Hương)

Nhà thơ cũng công khai bênh vực đàn bà có bầu mà không có chồng “Không, nhưng vâng, không sao đâu”đồng thời mạnh dạn khẳng định tính cách ngỗ ngược của mình là một thách thức đối với xã hội phong kiến:

“Cân nhỏ, mùi trầu
Đây là mùi hương của Huyền Tương, nó đã bị xóa sạch.
Phải chăng họ là định mệnh?
Không xanh như lá bạc như vôi. “

( Mời bạn đến ăn trầu – Hồ Xuân Hương)

Có thể nói, thơ Hồ Xuân Hương là một tràng cười sảng khoái, sảng khoái và dữ dội của tuổi trẻ ném thẳng vào xã hội phong kiến ​​Việt Nam đang bước vào thời kỳ suy tàn.

Quan tâm đến số phận con người, khám phá phẩm chất, khát vọng của con người là nhiệm vụ quan trọng và vinh dự nhất của văn học, nghệ thuật. Vì vậy, phong trào văn học nhân văn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu phong phú, rực rỡ chưa từng có trong lịch sử văn học Trung Quốc.

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *