Nghị luận: Người đọc muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay (Xuân Diệu)

nghi-luan-nguoi-doc-muon-rang-tho-phai-xuat-phat-tu-thuc-tai-tu-doi-song-nhung-phai-di-qua-mot-tam-hon-mot-tri-tue-va-khi-di-qua-nhu-vay-tam-hon-tri-tue-phai-in-dau-vao-do-that-sau-sac-cang-ca

“Người đọc muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay” (Xuân Diệu).

Trình bày suy nghĩ của anh, chị về nhận định trên. Qua các tác phẩm đã học ở sách Ngữ văn lớp 12 tập 1, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

1. Giải thích:

– Ý kiến của Xuân Diệu đã nêu lên một cách khái quát những yêu cầu cơ bản của người đọc thơ đối với thơ ca.

+ Nguồn gốc của thơ ca: “thơ phải xuất phát từ thực tại”. Thơ được sinh ra từ trong hiện thực cuộc đời, cái đẹp trong thơ phải mang dấu ấn của cái đẹp trong sự thật đời sống.

+ Nội dung của thơ ca phải thể hiện “một tâm hồn, một trí tuệ”: Thơ ca phải thể hiện được tình cảm và tư tưởng của thi nhân để rồi đưa tình cảm, tư tưởng đó đến với mỗi người đọc. Thơ ca chính là tiếng nói của một cái tôi cá nhân với cuộc đời.

+ Nghệ thuật sáng tạo thơ ca “càng cá thể, càng độc đáo càng hay”: Thơ ca phải mang dấu ấn sáng tạo và thể hiện phong cách nghệ thuật riêng biệt của thi nhân.

Tóm lại, đối với Xuân Diệu, một tác phẩm thơ cần bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, thể hiện những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ, độc đáo cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật để đem lại giá trị thẩm mỹ.

2. Bàn luận:

– Cuộc sống là điểm xuất phát (là đề tài vô tận, gợi nhiều cảm xúc phong phú … ), là đối tượng khám phá chủ yếu và cũng là cái đích cuối cùng của thơ ca nghệ thuật. Thơ ca nghệ thuật luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với đời sống xã hội. Những giá trị nghệ thuật chân chính xưa nay đều là những sáng tác bắt rễ sâu xa trong mảnh đất thực tế của thời đại mình. Thơ ca chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ, chỉ chinh phục trái tim người đọc khi thể hiện những vấn đề, những cảm xúc mà con người hằng quan tâm, trăn trở. Nếu thơ ca không bắt nguồn từ hiện thực, xa rời cuộc đời, thoát ly thực tại, thơ ca sẽ không thể đến với người đọc, không thể tồn tại trong cuộc đời, khi ấy thơ ca đã tự đánh mất chức năng cao quý nghệ thuật vị nhân sinh của mình.

– Vẻ đẹp của thơ ca trước hết thể hiện ở những tư tưởng, tình cảm mà tác phẩm hàm chứa. Không có chất liệu đời sống thì không làm nên nội dung và giá trị của tác phẩm. Nhưng  sự việc đời sống mà không âm vang vào tâm hồn, không lay động sâu xa cảm xúc của người nghệ sĩ thì không thể hóa thân thành cái đẹp của nghệ thuật. Chính vì vậy cần thấy rằng thơ ca là cuộc đời nhưng đó không phải là sự sao chép máy móc mà phải được cảm nhận và thanh lọc qua tâm hồn, trí tuệ của thi nhân để thành thơ. Thơ ca là hình ảnh của đời sống tươi nguyên được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy nếu thơ không có tư tưởng, tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng, nhạt nhẽo, vô vị, tầm thường, chỉ là trò làm xiếc ngôn từ vụng về chẳng thể đánh lừa được người đọc.

– Vẻ đẹp của thơ ca còn cần được đánh giá ở hình thức thể hiện. Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Vì vậy, thơ ca cũng đòi hỏi nhà thơ phải in dấu tâm hồn, trí tuệ mình vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay. Nhờ khả năng sáng tạo tuyệt vời mà các thi nhân luôn tìm ra những cách nói mới về những điều đã cũ. Nếu không có sáng tạo, không có phong cách riêng thì tác phẩm và tác giả đó sẽ không thể tồn tại trong văn chương. Những sáng tạo về hình thức biểu hiện rất phong phú qua thể loại, cấu tứ tác phẩm, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ…

3. Chứng minh:

(Học sinh biết vận dụng, phân tích một số bài thơ giai đoạn 1930-1945 trong chương trình Ngữ văn 11 để chứng minh và bình luận về ý kiến của Xuân Diệu. )

4. Đánh giá, nâng cao.

– Ý kiến của Xuân Diệu đã thể hiện tiêu chuẩn để đánh giá một thi phẩm đích thực và giúp ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa to lớn của thơ ca đối với cuộc sống con người.

Tham Khảo Thêm:  Suy nghĩ về lời tâm sự của thầy Nguyễn Ngọc Ký: "Con người ta chỉ sợ khiếm khuyết tâm hồn, đó là mầm tai họa, còn bất cứ khiếm khuyết nào trên cơ thể cũng không đáng sợ nếu ta dũng cảm đối diện và vượt qua để trở thành người không khiếm khuyết" (Thầy Nguyễn Ngọc Ký).

– Đây cũng là một quan điểm sáng tác định hướng cho mọi nhà thơ: thơ phải từ cuộc đời, hướng về cuộc đời, vẻ đẹp của một tác phẩm văn học phải kết hợp hài hòa cả nội dung và hình thức. Từ đó giúp nhà thơ có ý thức và trách nhiệm hơn trong quá trình sáng tạo thơ ca.


Tham khảo:

Bàn về nhiệm vụ của nhà văn, Vũ Trọng Phụng đã từng nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Xá định vị trí của nhà thơ, Xuân Diệu cho rằng: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay”.

Văn học mang vẻ đẹp thay đổi qua từng thời đại bởi đây không chỉ là nghệ thuật đơn thuần như hội họa hay âm nhạc. Văn học hơn hết là sự phản ánh về đời sống của người dân, xuất phát từ hiện thực đã định sẵn, từ đó mà chiếm lĩnh tâm hồn của độc giả. Không như các cuốn tiểu thuyết ngôn tình hay bất cứ quyển truyện khoa học viễn tưởng, văn học đích thực mang trong mình vẻ đẹp riêng biệt, chẳng phải một “ánh trăng lừa dối” (Nam Cao) hay một lớp màn hư ảo che đậy sự thật nào.

Chế Lan Viên từng nhận đinh: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim” . Nếu văn phong và cốt truyện của tác giả có hay cỡ nào mà nội dung toàn là những điều vô thực, dối trá, tránh né sự thực ở đời thì không thể nào chạm sâu vào đáy trái tim người đọc. Thay vào đó, văn học có thể chỉ đơn giản là những tác phẩm lên án về cuộc sống hay nghịch cảnh quá rõ ràng để ai xem vào cũng đều cảm thấu nỗi đau của con người lúc bấy giờ.

Quang Dũng từng viết:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

(Tây Tiến)

Tuy phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng, va chạm với trùng trùng hiểm nguy, bao nhiêu gian khó, hình ảnh người lính Tây Tiến thể hiện qua giọng văn hóm hỉnh của ông, kể cả khi rụng hết cả tóc, tái xanh cả người vẫn không hề chùn bước. Họ khoác trên mình một tâm thế vững vàng, dữ tợn mà mạnh mẽ tựa “oai hùm”. Nhưng cuối cùng, biết bao chiến binh một lòng vì nước đã ngã xuống: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “Áo bào thay chiếu, anh về đất”. Nỗi nhớ về đoàn quân này dâng trào lên trong lòng người thi sĩ. Ông không vì cái đau sót ở hiện thực mà vùi lấp đi sự mất mát để lại sau chiến tranh, vốn là những người anh em đã đồng hành với nhau suốt tuyến đường hành quân. Tất cả đều bắt nguồn từ nỗi nhớ, khởi sinh từ cốt lõi của lịch sử. Suy cho cùng, bụi thời gian khó có thể làm dịu đi những tàn tích đau thương của chiến tranh, chúng hiện lên thành chữ, thành dòng trên tác phẩm bi hùng của ông.

Thay đổi theo thời đại, chiến tranh kết thúc. Các tác phẩm văn học nay lại xoáy sâu hơn vào cuộc sống và tình thương giữa người với người, sự thực phũ phàng một lần nữa được phơi bày khi nấm mộ người bà của Nguyễn Duy đã xanh màu cỏ dại:

khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

(Đò lèn – Nguyễn Duy)

Đứng trước ngôi mộ của bà, Nguyễn Duy không thể kiềm nén nỗi chua xót cho số phận để rồi bằng tấm lòng, tâm hồn một thi sĩ, ông như thốt lên thật lớn rằng: “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”. Ông tiếc nuối cho quá khứ, trách móc thời gian, trách móc chính mình vì đã quá vô tâm, mải rong chơi suốt thời non trẻ để khi trưởng thành lại nhận ra rằng lúc bấy giờ cháu đã khôn lớn, đến thời điểm bà phải ra đi, không thể kề cạnh, chăm nom cho cháu nữa. Tất cả những dòng thơ “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế / bà mò cua xúc tép ở đồng Quan”, “bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn” hay “khi tôi biết thương bà thì đã muộn / bà chỉ còn là một nấm có thôi!” như rút hết tâm can, buông hết nỗi niềm của tác giả một cách chân thực nhất, gần gũi nhất, lay động nhất. Chúng chạm đến trái tim những con người “đa sầu đa cảm” bằng một giọng điệu thơ chân thành, thân thuộc mà bất ngờ như cái vỗ tay để cho ta giật mình bừng tỉnh khỏi các cuộc vui nhất thời, để hiểu và tin rằng ai trong chúng ta cũng đều có thể tránh phạm phải sai lầm của ông trước những giây phút muộn màng.

Tham Khảo Thêm:  Chứng minh: Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng

Bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy tuy chủ đề chẳng gì là lạ lẫm cũng như không mang theo một màu hồng như bao người vẫn lầm tưởng về thơ ca. Đấy đơn giản là sự tái hiện về chuỗi ngày khó khăn của bà được tác giả ghi lại qua ngòi bút với cái nhìn sâu sắc để bày tỏ nỗi lòng, tâm tư; đồng thời cũng là để cảnh tỉnh cho bạn đọc về lối sống vô tâm một cách thật chân tình. Bởi lẽ đó mà Nguyễn Duy hiện tại là một trong những nhà thơ xuất chúng được rất nhiều độc giả, thi nhân nhắc đến khi bàn về văn học Việt Nam.

Thế nhưng, cái đẹp trong văn học không chỉ thể hiện qua cốt lõi của hiện thực trong đời sống mà kèm theo đó là nét độc đáo, đặc trưng vốn có của lĩnh vực đầy tính nghệ thuật này. Nghệ thuật, một trong những thứ phục vụ cho đời sống tinh thần của con người Việt Nam từ rất lâu, vốn dĩ là sự sáng tạo, sự đổi mới cho phù hợp với thời đại mà song hành với nó là “tâm hồn”“trí tuệ” của con người sáng tạo nên. “Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống” nhưng nó phải được thanh lọc qua lăng kính tâm hồn của ngừi nghệ sĩ một cách kĩ lưỡng trước khi nó hiện hình trên ngôn ngữ. “Tâm hồn” trong tác phẩm của thi nhân chính là cảm xúc và tâm sự xuất phát từ tận đáy con tim như nỗi nhớ Tây Tiến trong bài thơ cùng tên được viết bởi Quang Dũng hay nỗi đau của Nguyễn Duy trước ngôi mộ người bà thân thương.

Cái ta càng cần phải chú ý hơn là hai chữ “trí tuệ” trong câu nói của Xuân Diệu. “Trí tuệ” có thể hiểu ở đây là cách vận dụng ngôn từ, gợi tả hình ảnh, diễn đạt xúc cảm qua ngữ điệu trong thi ca cũng như các thủ pháp nghệ thuật với hiệu quả mà chung mang lại. Đấy chính là cái đặc thù của văn học mà các lĩnh vực về nghệ thuật khác chưa bao giờ có, là lý do mà các nhà văn, nhà thơ cũng như rất nhiều nhà phê bình văn học hướng tới để tìm kiếm sự mới mẻ trong cách vận dụng sự đặc sắc về ngôn ngữ của người Việt. Các tác gia lỗi lạc cũng chính là những người cao nhân đã bước chân vào thế giới “muôn màu muôn vẻ” này và in một dấu chân không thể phai nhòa.

Được mệnh danh là cánh chim đầu đàn trong Cách Mạng thơ ca Việt Nam, Tố Hữu sử dụng từ ngữ và văn học như một thứ vũ khí trên sàn đấu nghệ thuật. Với giọng thơ trữ tình chính trị; viết về kháng chiến, đề tài người lính với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như những lời nói ngọt ngào khiến ta liên tưởng đến một bài thơ tình yêu thật lãng mạn; ông tỏ bày tình cảm giữa các anh cán bộ với người dân Việt Bắc như sau:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Nỗi nhớ của các anh chiến sĩ giành cho người dân Việt Bắc lúc ra đi thật dạt dào lại tha thiết như tình yêu đôi lứa giữa các chàng trai trẻ với những cô thôn nữ miền quê. Mượn ý ca dao, người con nơi xứ Huế mộng mơ này đã mang vẻ đẹp từ văn học dân gian đến tác phẩm của mình để gợi lên nét đẹp trong lòng những người lính Việt Bắc về tình cảm giữa chiến sĩ với nhân dân: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi / Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Với ngòi bút tinh tế của mình, ông sử dụng 3 lần điệp từ “nhớ”, so sánh tình yêu ấy như nỗi niềm bao cặp tình nhân, nỗi sót cho “người thương”, nỗi luyến tiếc vì phải xa cách “người yêu”. Buổi chia tay để lại trong lòng các anh bộ đội niềm xao xuyến lặp đi lặp lại thâu ngày, thâu đêm kể cả vào thời điểm ra quân.

Cái tình cảm cao đẹp giữa những con người đã gắn bó với nhau suốt mười mấy năm trời đang lan tỏa trong chiều rộng của không gian, trải dài từ “đầu núi” đến “lưng nương”. Không dừng lại ở đó, nó ngự trị cả thời gian, nồng thắm ngay cả khi “nắng chiều” buông xuống cho tới lúc “trăng lên” tận đỉnh bầu trời mây mờ giữa đêm, vượt xuyên cả buổi sáng sớm, thời điểm mà “từng bản khói cùng sương” vẫn còn màu xám xịt, hư ảo. Nhưng dầu “sớm”, dầu “khuya”, tình yêu các anh bộ đội vẫn luôn một lòng hướng về nhân dân, tổ quốc thân yêu, hướng về Việt Bắc – một nơi tuy không giàu về điều kiện vật chất nhưng đầy ắp tình người.

Tham Khảo Thêm:  Nghị luận vấn đề vô cảm của con người ngày nay

Nỗi nhớ bao trùm lên các anh chiến sĩ, vây quanh hình tượng “bếp lửa”, vốn là nỗi ám ảnh của những người con xa nhà. Dường như vẻ đẹp ấy ta đã từng bắt gặp đâu đó trong bài thơ “Bếp lửa” được viết bởi Bằng Việt. Nay lại được tái hiện qua tác phẩm của người thi sĩ Cách Mạng kia. Ta thấy rằng, thơ ca là sự bắt gặp ngẫu nhiên của những con người có tâm hồn đồng điệu, “bếp lửa” giờ đây thêm lần xuất hiện trong “Việt Bắc” của Tố Hữu, gợi lên biết bao cái đẹp trong cảm xúc và tư tưởng của nhà thơ về cuộc sống con người. Ta nhận thấy rằng, lối viết thơ của Tố Hữu không thiên về vốn từ đa dạng, phong phú; hỉnh ảnh thơ không quá xa lạ mà thay vào đó ông mang đến cho bạn đọc của mình nét đẹp ở những con người đứng lên vì kháng chiến. “Việt Bắc” thực chất hoàn toàn có thể viết dưới phong cách ngôn ngữ báo chí bởi đây chẳng khác nào việc đưa tin về một cuộc chia tay lịch sử. Thay vào đó, ông sử dụng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật để từng vần thơ, từng khoảnh khắc mà ông ghi lại sẽ bất tử với dòng chảy thời gian.

Như vậy, ta có thể khẳng định rằng Xuân Diệu hoàn toàn đúng khi nói “thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống” và được “in dấu” khi đi qua một ngòi bút có “tâm hồn” sâu sắc và “trí tuệ” thâm sâu. Nếu các nhà thơ cho ra đời những thi phẩm đầy tính nghệ thuật mà chẳng có giá trị nhân văn về đời sống con người thì sớm muộn cũng sẽ bị đào thải. Ngược lại, một sáng tác văn chương với bao nhiêu chân lý sống và triết lý nhân sinh đi chăng nữa, chỉ cần không có tính nghệ thuật, vốn là cái không thể thiếu trong văn học, thì kết quả ấy cũng không thể gọi là tác phẩm, nội dung có thể hay nhưng người đọc sẽ dễ dàng bỏ qua khi nó không phục vụ được cho họ về đời sống tinh thần vì chỉ có “linh hồn” mới là “ấn tượng của một tác phẩm” mà thôi (Puskin). Vậy nên trong sáng tác, sự sánh bước của nghệ thuật và nội dung dường như là không thể tách rời trên chặng đường đến với đỉnh cao của lĩnh vực về nghệ thuật ngôn từ.

Nghị luận: Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học (Tố Hữu)

Chủ đề liên quan:

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *