Phân tích hình ảnh nhân vật Thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ

nhan-vat-thong-li-pa-tra-trong-vo-chong-a-phu

Phân tích hình ảnh nhân vật Thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ.

Nhà văn Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lí Pá Tra và vợ chồng A Phủ.

Dựa trên hình ảnh của một nhân vật có thật trong Mùa Chống Lâu, một tên độc ác, chuyên chống phá cách mạng, Tô Hoài đã xây dựng nên hình tượng thống lí Pá tra thật đặc sắc.

Điểm đầu tiên mà Tô Hoài Khắc họa thống lí Pá Tra chính là một thống lí giàu có: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân  nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp lửa”.

Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích, sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại cho muối về bán, giàu lắm”. Mặt khác lại làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy thống lí Pá Tra là một kẻ độc ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí Pá Tra qua cảnh giàu sang của hắn càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản ấy.

Điểm nổi bậc thứ hai, Thống lí Pá Tra chính là một thống lí chìm đắm trong nghiện ngập, sa đọa. Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”. Cách miêu tả của nhà văn cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất Hồng Ngài, được Tô Hoài Khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc, trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”.

Thống lí Pá Tra là một thống lí độc ác, tàn nhẫn, bạo ngược. Cha con Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử nói với bố Mị: “Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết.Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt, muốn hành hạ thì hành hạ.

Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra – Vợ của A sử nhưng Mị cũng như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ, bị cha con Pá Tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí.

Thủ đoạn của thống lí Pá Tra đã dùng thần quyền và cường quyền để giam hãm thể xác và tâm hồn con người. Bản chất lưu manh, nham hiểm của Pá Tra thể hiện rõ nhất trong cách bắt Mị làm con dâu gạt nợ. Cha con Pá Tra ngang nhiên bắt Mị về nhà. Hắn dùng sức mạnh của cường quyền để biến Mị thành kẻ ở trả nợ. Không những thế hắn còn dùng cả thần quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì “ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.

Đức tin về thần linh là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác, giày vò tinh thần con người. Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A Phủ. Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man. “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn. Ở Hồng Ngài, cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó sống. Bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập, sa đọa của bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu đó cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.

Tham Khảo Thêm:  Phân tích vai trò của yếu tố miêu tả trong bài văn thuyết minh và bài văn nghị luận

“Phiên tòa” khôi hài, dị hợm khi hội đồng xét xử từ cao nhất là thống lí đến đứa thấp nhất là bọn chức việc đều là những con nghiện, ngập ngụa trong khói thuốc phiện. Những kẻ đứng đầu ở đây toàn là những con quỷ dữ, những kẻ cậy quyền, tàn ác, độc địa, sống trên những đồng tiền của Pá Tra, và bị Pá Tra biến thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Vì thế mà không ngạc nhiên khi bản án đưa ra bởi thống lý Pá Tra cũng rất vô lí: Đánh người làng thì phải “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”

Bản chất cường hào ác bá, bóc lột vơ vét của bọn địa chủ phong kiến và tay sai của chúng bộc lộ rõ nét. Càng nực cười hơn là A Phủ phải bỏ tiền “mời các quan hút thuốc” để các quan đánh đập, hành hạ mình. Đánh con quan làng thì “phải xử tội chết, nhưng làng cho mày được sống mà nộp phạt”. Một bản án bất công khác mà A Sử mới chính là kẻ gây tội, mới là kẻ quấy rối, gây sự. Thật ra đây chính là phần mở đầu của thứ thủ đoạn tinh vi hơn: Dùng món nợ để nô lệ hóa con người, không chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ. “Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đây chính là thủ đoạn tinh vi để nô lệ hóa con người của thống lí. Bắt bớ một kẻ tội nghiệp, tra tấn đánh đập anh ta, kết tội anh ta, gán anh ta vào một món nợ, cho anh ta vay nợ và biến anh ta thành nô bộc để trả nợ dần. Thủ đoạn này làm ta nhớ đến một bá Kiến “đẩy nó xuống nước rồi lại cứu nó lên cho nó trả ơn”. Nó thâm độc ở chỗ một người như A Phủ làm lụng bao đời mới trả hết được món nợ ấy, một con số ngẫu nhiên người ta tuyên phạt vào anh? Và như vậy A Phủ trở thành nô lệ suốt đời cho thống lí mà không có cơ hội thoát.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả chi tiết: A Phủ “nhặt bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả vào trong tráp”. Chi tiết này đã tố cáo thủ đoạn thâm độc của Pá Tra, đồng thời bật lên tiếng cười mỉa mai của tác giả. Tiền trong tráp Pá Tra lại trở lại tráp Pá Tra, chỉ trong khoảng tích tắc ấy mà một con người tự do đã trở thành nô lệ. Quá trình vay tiền, đóng phạt diễn ra trong tích tắc, người thu tiền phạt cũng là Pá Tra, người cho vay cũng lại là Pá Tra, đầy mỉa mai, chua chát. Thủ đoạn này còn thâm độc hơn nữa khi không chỉ nô lệ một người, mà còn nô lệ nhiều thế hệ “đời mày, đời con, đời cháu mày cũng thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đây cũng chính là cách Mị bị biến thành nô lệ nhà thống lí và phải chăng còn nhiều nữa những nạn nhân của chúng?  Của cải nhà thống lí có được đều từ xương máu của những người này mà ra, những nạn nhân của thứ thủ đoạn thâm độc của thống lí.

Cha con thống lý Pá Tra coi rẻ mạng sống con người, chà đạp nhân phẩm con người một cách không thương tiếc, cuộc sống trong gia đình Pá Tra không khác gì từ thời chiếm hữu nô lệ, thậm chí nó còn tệ hơn. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy. “Người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng.” “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. “A phủ bị trói chờ chết”.

Cái lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy  sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.

Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, tàn ác của thống lí Pá Tra (và cũng là bộ mặt của bọn địa chủ phong kiến miền núi), qua đó giúp ta thấy rõ hơn cuộc sống cùng khổ, bế tắc của đồng bào miền núi, thấy rõ nguồn sức mạnh thôi thúc Mị và A Phủ vượt thoát khỏi cuộc sống tối tăm, tìm đến với ánh sáng cách mạng sau này


Đọc thêm:

Dàn bài phân tích truyện ngắn “VỢ CHỒNG A PHỦ” của nhà văn Tô Hoài.

– Tô Hoài (1920-2014), quê Hà Nội, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm của Tô Hoài viết chủ yếu về hai đề tài: vùng ngoại thành Hà Nội và miền núi Tây Bắc. Đối tượng được Tô Hoài khai thác nhiều nhất, thành công nhất trong tác phẩm của ông là cuộc sống của người lao động đói nghèo ở ngoại thành Hà Nội và miền núi Tây Bắc.

Tham Khảo Thêm:  Suy nghĩ về ý nghĩa của việc: Mạnh dạn chấp nhận những thử thách của cuộc sống đối với tuổi trẻ trong cuộc sống hôm nay.

–  “Vợ chồng A Phủ” (1952) là một trong ba tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ”, “Mường Giơn” và “Cứu đất cứu mường” in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm có 2 phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Phần sau viết về cuộc sống “Nên vợ nên chồng”, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.

“Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do. Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử-con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…

1. Nhân vật Mị:

a. Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện:

– Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.

– Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”.

→ Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.

b. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị:

* Trước hết, Mị là cô gái trẻ đẹp, hiếu hạnh, yêu đời và ham sống:

– Mỵ là cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.

– Một cô gái siêng năng, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.

– Là một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.

– Là người con hiếu thảo.

→ Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị, toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục.

* Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra:

– “Con dâu gạt nợ”: Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Mị là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý nên dù đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.

–  Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết:

+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.

+ Mị chỉ là một công cụ lao động biết nói mà không dám nói.

+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.

+ Mị âm thầm như một cái bóng.

+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.

→ Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật thật đau xót: Dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà.

c. Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị:

* Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài:

–  Những tác động của ngoại cảnh:

+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.

+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”.

+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.

→ Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để vọng vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.

–  Diễn biến tâm lý, hành động:

+  Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.

+  Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”.

+  Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. “Mị cảm thấy mình trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

Tham Khảo Thêm:  Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch lam, hãy làm sáng tỏ ý kiến: “Bắt rễ ở cuộc đời hàng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn con người” (Nguyễn Đình Thi)

+  Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.

+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển hóa thành hành động thực tế và hành động này dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn được.

→ Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một trận gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị, của mỗi cá nhân.

* Sức phản kháng táo bạo, quyết liệt của Mị trong đêm mùa đông cởi dây trói cho A Phủ:

– Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành sức phản kháng táo bạo.

– Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài:

+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng.

+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và thương người.

+ Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.

+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài.

→ Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.

2. Nhân vật A Phủ:

a. A phủ có một số phận éo le đáng thương:

– Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).

– Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.

b. A Phủ có một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc:

– Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.

– Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm.

– Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.

– Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

c. A phủ là nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo:

– Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.

– Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.

→ Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.

3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

a. Giá trị hiện thực:

+ Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới chế độ cường quyền và thần quyền của phong kiến chúa đất miền núi (dẫn chứng Mị, A Phủ).

+ Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (dẫn chứng cha con thống lí Pá Tra)

+ Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ)

b. Giá trị nhân đạo:

+ Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi (dẫn chứng nhân vật Mị, A Phủ)

+ Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần quyền).

+ Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật Mị-trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)

+ Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình (Dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).

c. Giá trị nghệ thuật:

– Tô Hoài rất thành công ở cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ. Tâm lý nhân vật được khắc họa tinh tế, sắc sảo.

– Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài). Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).

– Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội,những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Nhà văn đưa ra cách giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *