Số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua 2 tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chiếc thuyền ngoài xa

so-phan-va-ve-dep-cour-

Kể về số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hai tác phẩm “Đôi lứa A Phủ” và “Con tàu xa xôi”

Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam, đặc biệt là những người phụ nữ xấu số, chịu nhiều cay đắng, tủi nhục. Đặc biệt trong khoảng thời gian từ 1945 đến cuối thế kỷ 20, chủ đề này được thể hiện rất rõ qua nhiều nhân vật. Nổi bật nhất là hiện tượng Mị trong tác phẩm Vợ chồng son của Đỗ Hoài và nhà văn Nguyễn Minh Châu, qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Mị xuất hiện với tư cách là một cô gái đánh cá. Mỗi nhân vật đều có một hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng vẫn toát lên khí chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.

Đỗ Hoài Ái, người có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà, đã mạnh dạn định hình hình tượng người phụ nữ với tác phẩm “Đôi vợ chồng son” và tác phẩm “Con tàu xa xôi” của Nguyễn Minh Châu. Những nhà văn này tạo nên một tiếng nói chung – đối với họ, một tiếng nói nhân đạo. Nhà văn không chỉ thể hiện sự quan tâm, đồng cảm, thương cảm với những số phận bất hạnh ấy mà còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.

Số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài:

Đến với “Vợ chồng A Phủ”, ta bắt gặp hình ảnh Mị – người phụ nữ Mông bất hạnh nhưng có nghị lực sống tiềm tàng mạnh mẽ. Sau khi đọc “Người vợ tôi tìm thấy” của Jin Lan, tôi cảm thấy tiếc cho người vợ của anh ấy, và tôi sôi máu vì sự sống và sự sống, và khóc cho số phận của người phụ nữ đánh cá trong “Wai Zhou Yuan” của Ruan Mingzhu. Một người phụ nữ cam chịu, hi sinh.

“Nhà họ Fu” là một truyện ngắn trong “Tuyển tập truyện Tây Bắc” của Đỗ Hoài Ái, được viết vào năm 1953 và được viết sau khi tác giả đi thực tế. Đây là truyện ngắn tiêu biểu nhất của Dư Hoài, nhất là trong văn xuôi chống Pháp của ông, tác phẩm phản ánh chân thực đời sống của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực phong kiến ​​thực dân. Đồng thời, đây cũng là bài ca về niềm khao khát tự do của người dân miền núi, về hình ảnh và cuộc sống trên con đường giải phóng. Điển hình nhất trong những con người đó chính là tôi, một con người lầm lũi, đáng thương nhưng đầy phẩm chất cao đẹp.

Mở đầu tác phẩm, Du Hoài Ái giới thiệu tôi là một cô gái đang ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, bên cạnh đoàn tàu ngựa “Dù là cắt cỏ ngựa, dệt vải, chặt củi hay chặt củi, bao giờ cũng thế” từ dòng suối Mang nước cho bà. Cúi mặt xuống, mặt buồn rười rượi. Đó là hình ảnh những người nô lệ bị chà đạp. Nhưng tôi là ai? _Nàng là con dâu phản bội nhà Bacha, số phận bất hạnh.

Tôi vốn là một Miêu nữ, con nhà nghèo. Một cô gái vừa xinh vừa đẹp. Không những thế, ông còn cần cù, dũng cảm, hiếu thảo, ham sống, yêu đời, tài hoa. Tiếng sáo của tôi có sức hấp dẫn đặc biệt với nhiều cậu bé mèo. Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi trẻ hạnh phúc và tình yêu đã không đến với cô gái tội nghiệp này. Tôi mang bi kịch của một cô gái trẻ khao khát tự do, hạnh phúc nhưng lại phải rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, không biết đi về đâu. Chỉ vì một món nợ truyền thống – ngày trước bố mẹ tôi lấy nhau, tôi phải vay tiền Thống đốc Bacha cho đến tuổi già, mẹ bà qua đời vẫn chưa trả được nợ nên tôi phải sống nhờ vào thân xác bà. Cô dâu bên cạnh đó của nợ.

Sau khi trở thành vợ của thống đốc, tôi đã trải qua những giai đoạn đau đớn, tăm tối và tủi nhục. Trên danh nghĩa, tôi là con dâu của một gia đình quan chức, nhưng thực tế tôi là một nô lệ không được trả công. Tôi không chỉ bị tra tấn về thể xác mà cả về tinh thần. Trong nhiều tháng, đêm nào tôi cũng khóc. Cô gái tội nghiệp đã từng muốn kết thúc cuộc đời mình bằng một nắm lá, nhưng ngay cả khi cô ấy chết, món nợ vẫn còn. Bố tôi ngày trước còn khổ hơn bây giờ. Vì yêu anh nên tôi phải quay lại lấy. Sống như một nô lệ. Dưới ách áp bức cường quyền, thần quyền, phong kiến ​​nặng nề ở miền núi, tôi phải sống cuộc đời như loài cầm thú, thậm chí còn tồi tệ hơn cả cầm thú. Cuộc sống con người và cá nhân không phải là giá rẻ ở bất cứ đâu.

Tôi bị giam cầm và đày ải khắp địa ngục kinh hoàng của thống đốc, và tôi đang chết dần chết mòn theo năm tháng. Thân xác khô héo, tâm hồn lạnh lẽo trống vắng. Tôi gần như bị tê liệt bởi cuộc sống. Tôi mất hết cảm giác về thời gian, thời gian thay đổi, và sớm hay muộn chẳng còn ý nghĩa gì với tôi: không quá khứ, không hiện tại và không tương lai. “Sống khổ lâu rồi cũng quen”, “Bà ngày càng im lặng, thu mình lại như con rùa trốn vào một xó”. Cuộc đời tôi chỉ trông chờ vào khung cửa sổ “đục, trăng trắng chẳng biết là sương hay là nắng”. Tôi gần như đã mất đi ý thức về bản thân và mong muốn thay đổi vận mệnh của mình, thậm chí cả cảm giác về cái chết cũng không còn nữa.

Bức tranh “Con thuyền ngoài xa” vẽ một gia đình mưu sinh bằng nghề đánh cá. Trong đó có người chồng, người cha vũ phu, có cậu bé Phác thương mẹ, muốn can ngăn cha đánh mẹ… tất cả điều này gây ấn tượng đặc biệt trong lòng người đọc. Nhưng không hiểu sao, đôi mắt và trái tim tôi dường như bị thu hút bởi người đàn bà đánh cá vô danh ấy.

Nhìn lại số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua truyện ngắn “Con tàu ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu:

Cô ấy không xinh đẹp, hay đúng hơn là bệnh tật, bị đánh đập và cuộc sống lao động vất vả đã khiến một người phụ nữ mất đi sự quyến rũ của mình. Cô ta trạc bốn mươi tuổi, khuôn mặt thô kệch. Lúc nào trông cũng mệt mỏi, người phụ nữ này đã có một cuộc sống khó khăn. Số phận kém may mắn của cô dường như đã được báo trước từ khi còn nhỏ: “Từ nhỏ em đã xấu xí, mặt rỗ, đi làm về lại nổi cả mụn”, người con trai làng chài ở miền Trung rủ rê. , hoặc đến nhà tôi để mua cho cô ấy để dệt lưới.”

Một lối suy nghĩ, giản dị như một tiếng thở dài, kìm nén quá nhiều cảm xúc. Người đàn bà chậm rãi kể về nỗi bất hạnh về sắc đẹp trong cuộc đời mình, đối với một người phụ nữ ai chẳng muốn mình trở nên xinh đẹp. Biết đâu, khi cô nghĩ về cuộc sống của chính mình, cô lại nghĩ đến hai chữ “nếu như…”. Phải, nếu cô xinh đẹp thì số phận đã không đưa cô đến với người chồng vùng biển này, nếu cô không sống một cuộc đời khốn khổ như vậy thì người chồng của cô đã không tàn nhẫn như vậy…

Nhưng tất cả vẻ đẹp và hạnh phúc đều không dành cho người đàn bà đánh cá tội nghiệp này. Cuộc sống cơ cực đến mức cô luôn phải đối mặt với hai loại sóng gió: một là từ biển lạnh và một là do người chồng vũ phu. Người phụ nữ này khốn khổ, chật vật lo từng bữa ăn, từng manh áo cho gia đình. Cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong cuộc đời cô. Người đàn bà chợt khịt mũi, đôi mắt như đang nhìn chính mạng sống của mình: Giá mà bớt con đi, hoặc mua được chiếc ghe to hơn thì từ ngày cách mạng không còn đói khổ như trước. , Trời dựng biển mấy tháng, cả nhà vợ chồng con cái đều ăn xương rồng luộc chấm muối…”

Cả cuộc đời bà bị ám ảnh bởi cái đói, cái nghèo phải lo cho cuộc sống hàng ngày. Những cơn bão biển đã làm xỉn màu, móp méo và làm xù xì vẻ ngoài nữ tính của cô. Nhưng điều đáng sợ hơn là những cơn giông tố do những “đòn đánh” hàng ngày mang lại vẫn tiếp tục ập đến thể xác và tâm hồn cô. Ông lão – chồng bà, từ dáng vẻ, cử chỉ đều bộc lộ hết vẻ dữ tợn, nghiêm nghị, “lưng rộng như lưng thuyền, cong queo. Tóc tổ quạ. Đôi lông mày rám nắng của cô ấy rũ xuống, hai con mắt tàn nhẫn nhìn chằm chằm vào tấm lưng tái nhợt và tả tơi của người phụ nữ, nửa thân dưới ướt đẫm của cô ấy …

Những ánh mắt ấy khiến người đọc nấn ná mãi Đằng sau mọi nhọc nhằn, ông lão nhìn chằm chằm vào người đàn bà, thấy vợ không phải là điểm tựa yêu thương mà là ngọn nguồn của mọi điều, bao đau khổ đè nặng lên ông.

Những ánh mắt căm thù như muốn nuốt sống họ, trút mọi oán hận lên người phụ nữ yếu đuối này. Tôi hiểu rằng một phần khó khăn đến từ bọn trẻ, nhưng người phụ nữ đó đã đúng! Cô phải còng lưng chịu đựng những bi kịch đời thường, trơ mặt đánh đòn như trước. Thường có thể chịu được. “Ba ngày đánh nhẹ, năm ngày đánh nặng”, mật độ dày đặc nên đòn như trút nước. Ah ” Để nàng cúi đầu nuốt nước mắt đắng cay cho số phận.

Em sinh ra là một con người, cũng như bao người phụ nữ khác, dù mạnh mẽ đến đâu cũng chỉ biết vùng vẫy, tâm hồn vẫn yếu đuối, mong manh. Ai bảo nước mắt đàn bà rơi, nhưng giờ không phải chỉ vì bị đánh mà vì một bàn tay nào đó đã làm tổn thương trái tim và sự nhạy cảm của tâm hồn người đó. Vẫn là một vấn đề nhức nhối trong xã hội phát triển đó!

Hình ảnh người phụ nữ trong văn học Việt Nam:

Từ 1945 đến cuối thế kỷ 20, hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam thật ấn tượng và độc đáo. Đó là một số phận đáng thương, một cuộc đời nghiệt ngã và bất hạnh. Nhưng họ không dừng lại ở việc lợi dụng xã hội và cuộc sống khốn khổ và bất công đẩy cuộc sống của họ đến cùng cực. Nhưng ở đó các nhà văn đều có vẻ đẹp và phẩm chất đáng trân trọng – ánh sáng đẹp đẽ của trái tim phụ nữ. Bất công, vượt qua số phận bất hạnh, tìm thấy hạnh phúc.

Như nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết: “Sống có sinh có chết, hạnh phúc đến từ những hy sinh gian khổ, cuộc sống không có kết thúc, chỉ có ranh giới, quan trọng là có nghị lực vượt qua ranh giới”. người đọc khi đọc tác phẩm có sự cộng hưởng sâu sắc nhất”

Vì vậy, sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, khát vọng sinh tồn, niềm tin vào tình yêu và đức hi sinh cao cả đã phác họa chân dung vẻ đẹp, phẩm chất của trái tim người phụ nữ trong văn học Việt Nam. Miền Nam từ 1945 đến cuối thế kỷ XX.

Người phụ nữ này đến với văn học Việt Nam và để lại một tượng đài trường tồn về những con người không bao giờ khuất phục trước hoàn cảnh, luôn tìm kiếm và hướng tới những điều tốt đẹp, tươi sáng trong cuộc sống. Họ sẽ mãi là những hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ, dù hôm nay hay mai sau, họ vẫn mãi đọng lại trong tâm trí người đọc. “Người đàn ông nghèo nhưng xứng đáng.”

Tham Khảo Thêm:  Phân tích hình ảnh nhân vật Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *