Suy nghĩ về ý nghĩa hình ảnh vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Khiêu khích anh-vang-trang-trong-hien-tai-trong-bai-tho-anh-trang-cue-nguyen-duy

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ “Chiếu trăng” của Nguyễn Vệ

Nguyễn Vệ thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trước thời chống Mỹ, cứu nước. Thơ ông đậm chất triết luận, nghiêng về chiều sâu nội tâm của những trăn trở, day dứt, suy tư. Bài thơ “Ánh trăng” được viết năm 1978, ba năm sau khi chiến tranh kết thúc. Qua cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa trăng và người, bài thơ gợi cho người đọc nhớ lại những năm tháng gian khổ của cuộc đời quân ngũ năm xưa, sự gắn bó với thiên nhiên, thôn dã, chân quê, hiền hậu… Từ đó gợi cho người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn, trung thành với quá khứ. Thơ Trăng trong là một biểu tượng mơ hồ.

Trong thơ ca trung đại, trăng là biểu tượng của cái đẹp, sự vô tư, trong sáng. Trong thơ ca kháng chiến, trăng là ánh sáng, là người bạn, là người thân, là người cùng sống và chiến đấu. Vầng trăng cùng bộ đội trong thơ Đồng chí, vầng trăng trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu soi đường phía trước; Có thể nói, vầng trăng luôn ở bên con người, ở khắp mọi nơi là tấm lòng trung thành và chân thực nhất.

Trong bài thơ “Dưới trăng” của Nguyễn Duy, vầng trăng tái hiện thấm đẫm ý nghĩa đó. Vầng trăng là hình ảnh hồn nhiên, tươi mát của thiên nhiên, là người bạn suốt thời thơ ấu và cả thời chiến tranh ở rừng. Vầng trăng là biểu tượng của tình yêu đã qua, nhưng hơn thế nữa, trăng là vẻ đẹp bình dị và vĩnh cửu của cuộc sống.

Khi tôi còn nhỏ, cuộc sống ở nông thôn còn nhiều khó khăn nhưng tôi được gần gũi với thiên nhiên, với trăng và cỏ cây. Rồi khi tôi đi kháng chiến trong rừng, trăng theo dấu chân hành quân:

“Thuở nhỏ, tôi sống với đồng
với sông rồi với biển
trong cuộc chiến rừng
Mặt trăng trở thành một bộ ba”

Trong những dòng hồi tưởng, tác giả đã đúc kết vẻ đẹp của cuộc sống giản dị, vô tư, hồn nhiên, đồng thời khẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng là “bạn tri kỉ”, “tình cảm”. Trăng là người cùng vui cùng khổ, trăng trong đau khổ, dùng ánh sáng dịu mát của mình để xoa dịu nỗi đau chiến tranh. Vầng trăng là bạn đồng hành trên mỗi bước gian nan nên trăng là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của những kỉ niệm yêu thương. Hai chữ “tri kỷ” như một lời khẳng định cho một tình yêu sâu đậm, bền chặt:

“Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ quên”
Trăng tình yêu”.

Với nỗi nhớ ấy, nhà thơ đã từng muốn “không bao giờ quên được”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn, nhưng từ “si” dường như chỉ sự xuất hiện của những chuyển biến trong câu chuyện của nhà thơ. Sau chiến tranh, những người lính bỏ lại núi rừng, nhưng không về quê mà lên thành phố – chốn đô thị hiện đại – một không gian xa lạ. Sau đó, mọi thứ bắt đầu thay đổi:

Tham Khảo Thêm:  Phân tích ý nghĩa biểu tượng Cửu Trùng Đài

“Kể từ khi trở lại thành phố
Quen với ánh sáng của cửa gương
trăng qua ngõ
như một người qua đường. “

Những thay đổi về hoàn cảnh sống – không gian khác, thời gian khác, điều kiện sống khác đã kéo theo những thay đổi nhanh chóng của con người. Từ khi về thành phố, người ta mê mẩn cuộc sống tiện nghi đầy màu sắc của những “cửa gương sáng”. Những người lính bình dị năm xưa bắt đầu quen với cuộc sống tiện nghi hiện đại như “đèn điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp hóa át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người. Người lính đã quên ánh trăng đã từng cùng người lính vui buồn, tình cảm chân thành của người lính, một quá khứ đẹp đẽ nhưng cũng đầy tình người.

Vầng trăng tri kỉ bỗng trở thành “người lạ”, người qua đường xa lạ, con người không còn thiết tha. Những thay đổi tàn nhẫn là đau đớn. Chia tay tình cũ. Hành động “mở vội cửa sổ” và cảm giác bất ngờ “nhận ra trăng tròn” chứng tỏ mối quan hệ giữa con người với trăng không còn là tri kỷ, tình bạn như xưa nữa, vì có người bây giờ coi trăng như một đối tượng. Chiếu sáng chỉ thay thế điện.

Bài thơ dửng dưng, tàn nhẫn, đau đớn, buồn bã và mô tả một số điều xảo quyệt và tàn nhẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Có lẽ những thay đổi trong nền kinh tế, điều kiện sống và mức độ thoải mái dẫn đến sự thay đổi của trái tim? Vì vậy, Xinmin nói: “Con tàu đã bỏ lỡ bến tàu?”. Nhà thơ Tuyu cũng bày tỏ nỗi lo lắng của người dân Việt Nam khi tiễn quan về nước trong bài thơ “Việt Bắc”:

“Tôi sẽ đến một thành phố xa xôi
Nhà cao vẫn có thể nhìn thấy núi?
Phố Đông Làng You Kee
Có nhớ trăng trong rừng sáng chiều không?

Từ sự xa cách giữa con người và vầng trăng, nhà thơ muốn nhắn nhủ chúng ta: đừng để những giá trị vật chất chi phối mình. Hai khổ thơ cuối thể hiện trung thực tâm tư của tác giả và nỗi lòng của vầng trăng. Trăng và người tình cờ gặp nhau, không hẹn trước:

“Hãy nhìn lên khuôn mặt của bạn
công cụ đẫm nước mắt
như đồng là một chiếc xe tăng
như sông và rừng”

Lòng người đổi thay, trăng không cau. Khi trăng ló dạng vẫn có cảm giác tròn đầy, không có vết xước nào. “Trăng rằm” là một hình ảnh rất thơ mộng, không chỉ trăng tròn mà cả tình bạn giữa trăng vẫn vẹn nguyên, thuỷ chung như thuở nào. “Ngửa mặt” pose là tạo dáng nhìn trực diện: “mặt” ở đây là mặt trăng tròn. Khi mọi người nhìn thấy mặt trăng, họ có thể nhìn thấy người bạn tâm giao của mình. Lối viết độc đáo, sâu sắc.

Tham Khảo Thêm:  Đề bài: Đọc - hiểu về chủ đề tình mẹ (tình mẫu tử)

Từ buổi gặp mặt ấy, ánh trăng đã đánh thức những kỉ niệm đẹp năm xưa, đánh thức tình xưa, đánh thức những điều mà con người đã lãng quên. Cảm xúc “nước mắt chảy dài trên mặt” là biểu hiện của tâm hồn rung động, xao xuyến, rạo rực của trái tim khi gặp được người tri kỉ. Lời nói bây giờ là những giọt nước mắt dưới mí mắt. Khung cảnh thơ mộng rộn ràng như tranh trào dâng như tình yêu nơi trần thế. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như được sống lại một giấc mơ. “Ánh trăng” của tình yêu thật đáng quý, cao cả và vị tha biết bao:

“Trăng cứ tròn vành vạnh”
kể cho tôi nghe về anh chàng ngẫu nhiên đó
ánh trăng im lặng
Đủ làm tôi ngạc nhiên. “

Vầng trăng tượng trưng cho quá khứ trọn vẹn và không thể xóa nhòa, là người bạn, là nhân chứng của tình yêu, là lời nhắc nhở trang trọng của nhà thơ và của mỗi chúng ta. Con người có thể vô tâm, lãng quên nhưng thiên nhiên và tình yêu đã từng tồn tại thì luôn đong đầy và trường tồn. Dù con người có vô tình, “khuôn viên nào khuyết thì trăng khuyết” cũng không hề thay đổi. Đây chính là vẻ đẹp và sự vĩnh cửu. Nó còn là biểu tượng của vẻ đẹp và giá trị truyền thống.

Ở đây hình thành nên sự đối lập giữa “vòng tròn” và “người không hiểu biết”, đối lập giữa sự im lặng của ánh trăng và sự thức tỉnh “bất ngờ” của con người. Trăng tròn vành vạnh, trăng tĩnh lặng, không hờn giận, cũng không trách móc, chỉ ngắm nhìn, một loại ánh mắt sâu thẳm, như đang tìm kiếm một người quân tử, đủ để làm giật mình giữa cuộc sống yên bình này. Họ quên đi chính mình, quên đi những gì tốt đẹp nhất, thiêng liêng nhất trong quá khứ mà đắm chìm trong cuộc sống phồn hoa phú quý, ít nhiều sẽ đánh mất đi những gì tốt đẹp nhất của bản thân.

Trăng tròn là sự tồn tại của một quá khứ tươi đẹp không thể xóa nhòa. Ánh trăng là người bạn thân thiết, luôn nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tâm, đãng trí nhưng thiên nhiên và tình nghĩa quá khứ thì luôn đong đầy và vĩnh cửu.

Phép nhân hóa trong câu thơ “Ánh trăng im lặng” làm cho hình ảnh vầng trăng hiện lên như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất tình cảm, chung thủy nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc, nhắc nhở. “Ánh trăng câm lặng” tuy yên ả nhưng cũng đủ “đánh thức” sự tự nhận thức và nghiệm ra sự vô tình quên đi quá khứ đẹp đẽ, đồng nghĩa với việc con người đang phản bội chính mình. Nó cũng như một lời nhắc nhở chúng ta hãy tôn trọng và bảo vệ những nét đẹp, những giá trị truyền thống.

Tham Khảo Thêm:  Nghị luận: Văn học và tình thương có mối liên hệ qua lại rất mật thiết. Văn học bồi đắp tình thương và tình thương trở thành nguồn gốc, động lực của văn học.

Có thể thấy hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng trong tự nhiên. Nhưng trăng cũng là biểu tượng của quá khứ đầy cảm xúc, khi con người đứng trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo tính toán. Lúc bấy giờ lòng người thật rộng mở, như sông, ruộng, ao, rừng. Đó là những hình ảnh hoàn toàn rộng lớn và hùng vĩ của thiên nhiên. Nhưng khi kháng chiến thành công, người ta nhốt mình trong cửa kính, mua đinh, ra ở riêng cho mình, cho cá nhân nhỏ bé. Vì thế, trăng không gần, không quan tâm. Lúc này, trăng tượng trưng cho tình nghĩa đã qua, thủy chung, cho tình cảm cao cả, giản dị mà bất diệt, rực rỡ mãi mãi.

Người ta có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ thì không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh, đẹp như dĩ vãng, không bao giờ tàn, không bao giờ vắng. Chỉ những người bận tâm đến sự riêng tư ích kỷ mới có thể thờ ơ như vậy. Nhưng mặt trăng là thứ tha, không phải là “bất kể người vô tội.” Chính sự im lặng cao quý này đã làm kinh ngạc những người sớm quên ơn quá khứ.

Bài thơ “Ánh trăng” là lời tâm sự của Nguyễn Duy, là suy tư của nhà thơ trước những đổi thay của hoàn cảnh sống, khi con người từ chiến tranh trở về với cuộc sống thanh bình. Dòng sông, cánh đồng, ao hồ, rừng cây là những hình ảnh tượng trưng, ​​đồng thời là hình ảnh thực của những người kháng chiến. Thành phố là một môi trường hoàn toàn mới, và đó là hình ảnh chân thực của những người chống Nhật chưa từng đặt chân đến. Môi trường mới, hoàn cảnh mới, cách ly con người với thiên nhiên cũng có nghĩa là dần xa rời quá khứ, dửng dưng với quá khứ. Thói trăng hoa hay cảnh báo về sự sa sút tình cảm có thể dẫn đến suy thoái lối sống, suy thoái đạo đức. Đó là một lời nhắc nhở hãy trung thực với quá khứ, với những điều tốt đẹp của quá khứ.

Trăng và ánh trăng mang ý nghĩa tượng trưng, ​​trở thành hình ảnh xuyên suốt bài thơ, tạo thành dòng chảy liên tục, trở thành sợi tơ kết nối người nay với người xưa. Cuộc gặp gỡ này diễn ra thật tình cờ, nhưng nó có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó xuất phát từ một câu chuyện tưởng chừng như thường tình nhưng lại thức tỉnh mọi người. Lời nhắc nhở sâu sắc về thái độ, tình cảm của mỗi người về những năm tháng khó khăn đã qua nhưng về tình yêu thiên nhiên, đất nước bình dị. Đoạn thơ này nhắc nhở, củng cố ở người đọc thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”, trung thành với quá khứ, thủy chung với quá khứ.

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *