
Ý nghĩa của “sự ngạc nhiên” của mọi người trong bài thơ “Dưới ánh trăng” của Ruan Wei
Nguyễn Duy sáng tác bài thơ “Ánh trăng” vào năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh, một thành phố của cuộc sống hiện đại và tiện nghi. Có lẽ đây là hoàn cảnh thật của chính nhà thơ, một người lính già. Cái “bất ngờ” đầy tính nhân văn ở cuối bài thơ khiến thế hệ trẻ hôm nay không ngừng suy nghĩ.
Mặt trăng có mối quan hệ rất mật thiết với con người. Từ thuở ra trận, vầng trăng đã gắn bó với con người, không bao giờ rời xa. Trăng là bạn, là anh, là đồng chí, là một phần không thể thiếu của con người. Tưởng chừng như tình yêu ấy sẽ trường tồn mãi mãi không có gì thay đổi.
Tuy nhiên, cuộc sống luôn đầy rẫy những điều bất ngờ. Những thay đổi của hoàn cảnh khiến con người nhanh chóng quên đi trăng hoa và quá khứ. Cho đến khi sự cố mất điện xảy ra, người ta mới “chợt” thấy lại vầng trăng xưa.Mặt trăng không thay đổi, nó vẫn vậy “vừa tròn”“Dẫu cho người hờ hững và lãng quên.
Nhà thơ sáu lần nhắc đến hình ảnh vầng trăng. Nó trở thành một ẩn dụ hành động cho sự trọn vẹn, thủy chung và sâu sắc của nhân dân, của những người đã từng nuôi sống bộ đội. Ánh trăng không thay đổi nhiều lại càng khơi dậy nỗi day dứt trong lòng người lính.
hai từ “sợ hãi” Có rất nhiều tầng ý nghĩa ẩn chứa trong đó. Người ta “sốc” khi thấy ngoài thì sáng mà trong thì tối, đèn có thể tắt nhưng trăng thì không bao giờ tắt. Thật là “sốc” khi bất ngờ gặp lại vầng trăng xưa, người bạn chân chất thủy chung, nhiều ấm ức. Sở dĩ con người “ngỡ ngàng” là trăng vẫn “tròn”, vẫn đầy yêu thương và thủy chung, nhưng chúng ta đã thay đổi quá nhiều, trở nên vị tha và ích kỷ. Cảm xúc dâng trào khiến người xem “rưng rưng” không thể diễn tả thành lời.
nữ giới “sợ hãi” Ánh trăng đầy tính nhân văn trong bài thơ tượng trưng cho sự thức tỉnh, là sự nuối tiếc khi con người ta vô tình quên đi quá khứ. Đôi khi im lặng là hình phạt khắc nghiệt nhất. Người ta không thể sống mà không có quá khứ, cũng như không thể hướng tới tương lai mà không đứng trong quá khứ. Nhà thơ đã đưa ra những triết lý nhân sinh, tình yêu rất tự nhiên và sâu sắc trên đời.
Vầng trăng là hình ảnh trong sáng, trong lành của thiên nhiên, là người bạn thuở ấu thơ ta đánh giặc ở rừng. Trăng còn là biểu tượng của tình yêu đã qua, hơn thế nữa trăng còn mang vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của sự sống. Ở khổ thơ cuối, vầng trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên, không thể xóa nhòa, là người bạn, là nhân chứng thân thương, là lời nhắc nhở nghiêm khắc của nhà thơ và của mỗi chúng ta. Con người có thể vô tâm mà quên thiên nhiên, nhưng thiên nhiên (quá khứ) thì luôn tròn trịa và trường tồn.
Câu thơ cuối có thể xem là sự thành khẩn ăn năn, hối lỗi của con người trước lỗi lầm. Nó như lời nhắc nhở của người lính với chính mình: đừng bạc ơn, đừng quên nghĩa tình thủy chung năm xưa. Qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ thể hiện suy ngẫm sâu sắc của nhân dân về những gian khổ đã qua và thái độ biết ơn, nhắc nhở truyền thống “Uống rượu”, nhớ nước nhớ “nguồn” quý báu của dân tộc. Mọi người đều có trách nhiệm duy trì và phát huy.