Cảm nhận 8 câu thơ đầu đoạn trích Việt Bắc (trích Việt Bắc – Tố Hữu)

quả cam

Cảm nhận 8 câu thơ đầu đoạn trích Việt Nam (Việt Nam-Tố Hữu)

Hướng dẫn bài tập về nhà:

Tám câu đầu: Khoảnh khắc đầu tiên của buổi chia tay đầy bùi ngùi và nhớ nhung giữa những người sắp ra đi.

– Bốn câu đầu: ý chí của người ở lại.

+ “Mười lăm năm” Cách mạng gian khổ mà hào hùng đã ngọt ngào hỏi thăm, đặt ra, gắn bó đồng bào Việt Bắc với đồng bào kháng chiến, đồng thời khẳng định lòng thủy chung son sắt.

+ Tình cảm của kẻ đi và kẻ về được thể hiện qua những đại từ ta quen thuộc trong thơ ca dân gian và gắn với tình nghĩa vợ chồng, cách xưng hô: ta tạo thân thiết, tri kỷ. Nhớ, vuột đi, quay về, cùng với những tin nhắn “anh có nhớ em không”, “anh có nhớ” vang lên không ngừng.

+ Các từ “khao khát”, “mặn nồng” thể hiện nhiều tình cảm, lưu luyến.

—— Bốn câu sau: tiếng cán bộ đến rồi đi

+ Tuy không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại, nhưng tâm trạng buồn man mác, khắc khoải kèm theo cử chỉ “nắm tay nhau” đầy tình cảm đã bộc lộ tình cảm của ông: không xa, nhớ nhung, lưu luyến. Cán bộ ở lại hiện trường và người Bắc Việt.

+ Câu hỏi của người ở lại đã thông minh, nhưng câu trả lời còn thông minh hơn thế. Không phải là câu trả lời có hay không, mà là một cử chỉ. Câu thơ bị lược bỏ “nắm tay…” thể hiện thái độ bất cần của người cán bộ rời Việt Nam về nước.

+ Hình ảnh “áo chàm” – hoán dụ nghệ thuật, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc. Đó có thể là hình ảnh có thật, hoặc cũng có thể là hình ảnh do các cán bộ kháng Nhật tưởng tượng ra, để mỗi khi hình ảnh áo lam hiện lên trong tâm trí người cán bộ là bao hoài niệm. dội lại.


tham khảo:

Tham Khảo Thêm:  Đề bài: Đọc - hiểu về chủ đề Tuổi trẻ Việt Nam

Tháng 10 năm 1954, chính phủ kháng chiến rời căn cứ địa Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Trước bối cảnh đó, Du You đã viết bài thơ “Việt Bắc”, ghi lại khoảnh khắc những người cán bộ Việt Nam ấm áp chào tạm biệt nhân dân. 8 câu đầu diễn tả nỗi nhớ bằng cảm xúc thực.

Bốn câu đầu là những câu thơ gợi lại kí ức của nhân dân về cuộc kháng chiến gian khổ:

Em có nhớ những ngày em đi không?
Mây mưa cùng một mùa
Bạn sẽ nhớ Warzone khi quay lại chứ?
Miếng cơm chấm muối, mối hận nặng trĩu

Hai từ “có nhớ” và hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày ấy” và “chiến khu có nhớ không” đã gợi lên những kỉ niệm đau thương mà thân thương: Có nhớ những ngày ở đời không? Trong tự nhiên khắc nghiệt?

Liệt kê hình ảnh: “Mưa chạy ngang mây bay” – Biểu thị thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ của cảnh cán bộ và quần chúng “nằm sương ăn tuyết”, “nằm gai nếm mật”. Điều đó khẳng định quyết tâm cao của cán bộ và quần chúng nhân dân.

Tôi có nhớ những cảnh đời thiếu thốn nhưng luôn lạc quan không? Khổ vì thiếu thốn vật chất, ăn uống kham khổ: “Ăn thêm mắm dặm muối” – ăn không đủ no, mặc không ấm. Chính đau khổ đã đưa ta đến với nhau, để ta cùng nhau đấu tranh, cùng vui, cùng hưởng, cùng chia sẻ. Gác lại những khó khăn, “ta” và “tôi” gánh vác nhiệm vụ chung-nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nhân dân giao phó, đó là “gánh vác trách nhiệm nặng nề”-mối thù giặc Pháp đè nặng lên cả hai bên. đôi vai. Ở đây, cái chung luôn cao hơn cái riêng, nghĩa vụ cao hơn gian khổ – đây là tinh thần lớn của thời đại.

Bốn câu tiếp theo, kẻ ở lại gợi lên nỗi nhớ thiên nhiên và những kỉ niệm da diết về lòng nhân hậu của con người. Người nhớ lại Thiên nhiên tràn đầy tình yêu:

Tham Khảo Thêm:  Nghị luận: Nghệ thuật là ở chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường (Denis Diderot)

“Lên rừng nhớ ai
Trầm rụng đầy đất, nụ mai già”

“Rừng nhớ ai” vừa là nghệ thuật hoán dụ, vừa là câu hỏi tu từ – gợi nỗi nhớ da diết. Câu nói “điền mai, rụng mai cho đến già” bộc lộ nỗi buồn, nỗi nhớ nhung da diết. Mẫu câu “rơi… già đi” gợi tả khung cảnh núi rừng hoang vắng, hiu quạnh, vắng vẻ, hoang vu do vắng bóng quan trường.

Nhớ người Việt Nam:
Tôi sẽ nhớ nhà khi tôi đi?
Vội xóa đi bóng tối trong tim

Nhớ “nhà”, người Việt: “Bụi sậy đầy trời, lòng đầy vơi”. Câu thơ đảo ngữ, “hê hiu” đặt ở đầu câu tạo thành hai vế tương phản. “Bụi lau sậy” vừa chỉ sự hoang vu của núi rừng, vừa có nghĩa là nhà người dân nhuộm chàm, mộc mạc, bình dị, đây cũng là hình ảnh ẩn dụ cho sự nghèo khó của người dân Việt Nam. Nửa sau nhấn mạnh phẩm chất của người Việt Bắc: “ẩn trong tim”. Đó là tấm lòng của người luôn trung thành, dũng cảm với cách mạng, luôn hy sinh, nhường cơm, sẻ áo với bộ đội. Chính sự gian khổ và tấm lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng Điện Biên vĩ đại “đầu đội hoa đỏ, ghi sử vàng” và “lừng lẫy năm châu”. thế giới”.

Ở bốn câu thơ cuối, Việt Nam nhắc ta nhớ đến những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh đã trở thành địa danh trong chiến khu:

“Anh về nhớ núi
Tôi nhớ khi tôi chống Nhật, khi tôi ở Việt Minh”

Đoạn thơ dùng phép liệt kê hình ảnh “núi” để liệt kê các sự kiện “thời kháng Nhật, hay thời Việt Minh”, nhắc nhở mọi người: Việt Bắc là nơi tiền tuyến của Việt Bắc. Minh lãnh đạo cuộc cách mạng chống Pháp. Trước năm 1945, Việt Bắc đánh đuổi Nhật, là cơ sở quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc.

Tham Khảo Thêm:  Phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Kết thúc bài thơ là một câu hỏi lạ lùng: “Đi rồi anh có nhớ em không?” Đây là một nhận định sâu sắc. Chữ “tôi” thứ nhất và thứ hai chỉ cán bộ trở lại tiền tuyến, chữ “tôi” thứ ba chỉ người Bắc Việt. Giữa người Việt Bắc và người cán bộ dường như có một sự gắn bó, hòa nhập chặt chẽ, tuy hai mà một.

Hình ảnh mái nhà công vụ Hồng Thái, cây đa Tân Trào chỉ hai địa danh gắn với hai sự kiện trọng đại trước Cách mạng tháng Tám, để khẳng định Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, cội nguồn của cách mạng.

Cả bài thơ lặp lại 7 nhân vật “tôi”. Khi “anh đi”, “anh về”, “anh về”, “anh đi”, “anh đi anh nhớ”… tạo nên một giai điệu trữ tình dường như khắc sâu trong tâm hồn. người đi bộ. Tác giả đã kết hợp từ “ta” với phép biến đổi từ “đi-đi” linh hoạt gợi ra sự chia tay lưu luyến. Từ “nhớ” chỉ tình cảm của người Việt Nam. Thể thơ lục bát, giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng giúp thể hiện tình cảm nồng nàn của nhân dân Việt Nam đối với cách mạng, với nhân dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến.

Qua 8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc, nhà thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của mình đối với Việt Bắc – quê hương cách mạng, đất nước và con người, cuộc kháng chiến giờ chỉ còn là kỉ niệm, mang lại niềm vui cho hiện tại. Luôn bị ràng buộc với tình cảm trong quá khứ và niềm tin về tương lai. Bài thơ này là bài ca tình cảm của nhân dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Nhật cứu nước, chiều sâu của nó là truyền thống đền ơn đáp nghĩa và đạo lí trung nghĩa của dân tộc.

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *