CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
− Nguyễn Minh Châu −
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1950, ông tham gia nhập bộ đội. Năm 1952 – 1958, ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320.
- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học hiện nay”(Nguyên Ngọc) .
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Ông khẳng định: “ Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng lớp lịch sử.”
- Tác phẩm chính: “Cửa sông” (tiểu thuyết – 1967), “Những vùng trời khác nhau” (truyện ngắn – 1970), “Dấu chân người lính”(tiểu thuyết – 1977) …
- Năm 2000 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
– Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của VHVN thời kì đổi mới ,đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức – thế sự . Ông thuộc trong số nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: Truyện được sáng tác 8 – 1983, lúc đầu in trong tập Bến quê (1985), sau in trong tập truyện cùng tên(1987)
b. Hoàn cảnh sáng tác:
– Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
– Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
– Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
c. Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh sống của gia đình người đàn bà làng chài. Ở đó, ngoài vợ chồng họ còn cả một đàn con. Cuộc sống khó khăn, đói kém … làm con người thay đổi tâm tính. Trước đây, anh là một người hiền lành nhưng do cuộc sống cùng quẫn làm cho người chồng trở lên cục cằn thô lỗ, biến vợ thành đối tượng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa sẽ không phát hiện được.
- Nhưng cũng chính vì ở ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn. Đó là sự cô độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống, đơn độc của con người trong cuộc đời. Chính sự thiếu gần gũi, chia sẻ ấy là nguyên nhân sự bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp toàn mĩ. Chiếc thuyền là biểu tượng của sự toàn bích mà chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh nhận ra rằng cái đẹp ngoài xa cũng ẩn chứa nhiều ngang trái và nghịch lí. Nếu không lại gần anh chẳng thể phát hiện ra. Xa và gần, bên ngoài và sâu thẳm … đó cũng là cách nhìn, tiếp cận nghệ thuật chân chính.
⇒ Chiếc thuyền chỉ đẹp, thơ mộng khi nó ở ngoài xa giữa trời biển mờ sương ảo. Vì nó ở ngoài xa nên vẻ đẹp của nó đánh lừa người nghệ sĩ. Khi nó đến gần thì cảnh tượng thực tế hoàn toàn tương phản: đầy rẫy những cái xấu, cái ác. Vì nó ở ngoài xa nên người nghệ sĩ không nhìn thấy đúng bản chất của nó. Cách đặt nhan đề mang tính ẩn dụ, gắn liền với chủ đề của tác phẩm : phải có một cách nhìn đa dạng nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bề ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác giả muốn nhắc nhở người nghệ sĩ không thể đơn giản trong cách nhìn cuộc sống và con người.
4. Tóm tắt truyện:
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền & biển thật ưng ý, trưởng phòng phân công nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng (Tôi- được kể ở ngôi thứ nhất) đến một vùng biển miền Trung- nơi anh đã từng chiến đấu – chụp bổ sung một bức ảnh cho bộ lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, anh chụp được một cảnh đắt trời cho: Cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong buổi sớm mờ sương- một bức ảnh đẹp mĩ mãn, toàn bích.
Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng hết sức kinh ngạc: từ chính trong chiếc thuyền một gã đàn ông vũ phu đánh đập vợ hết sức dã man; sự cam chịu của người vợ; đứa con trai xông vào đánh lại bố. Lạ lùng thay ba hôm sau, cảnh tượng đánh đập vũ phu đó vẫn tiếp tục diễn ra. Phùng xông vào can thiệp, bị gã đàn ông đánh trả, anh bị thương & được đưa về trạm y tế của tòa án huyện.
Theo lời mời của Đẩu – một người bạn chiến đấu của Phùng nay là chánh án tòa án huyện- người đàn bà hàng chài đã đến tòa án.Tình cờ Phùng đã nghe câu chuyện của bà ta với bao sự cảm thông, ngỡ ngàng, ngạc nhiên.
Đẩu & Phùng khuyên chị bỏ người chồng vũ phu độc ác đó. Nhưng thật bất ngờ người phụ nữ đã một mực từ chối lời khuyên, nhất quyết xin không bỏ lão chồng vũ phu. Chị kể lại cuộc đời mình, gia cảnh của chị & chồng….Đó cũng là lí do chị từ chối lời khuyên trên.Những nhận thức mới bừng sáng trong Đẩu & Phùng sau câu chuyện…
Từ sau chuyến đi đó, mỗi lần ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa”, tuy là ảnh đen trắng nhưng Phùng thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai & hình ảnh người đàn bước ra khỏi tấm ảnh với tấm áo bạc phếch, lam lũ, khốn khổ…
II/. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
1. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng:
a. Phát hiện thứ nhất: Chiếc thuyền ngoài xa trong biển sớm mờ sương:“một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”:
– “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa , pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
– Khung cảnh được nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó giống hệt “cánh một con dơi”, đẹp từ đường nét đến ánh sáng.
⇒ Một vẻ đẹp “ trời cho” mà suốt cả đời cầm máy anh chỉ diễm phúc bắt gặp được một lần.
– Tâm trạng: bối rối, trái tim như có cái gì bóp thắt vào →vui sướng, hạnh phúc:
+ Bởi sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
+ Bởi bắt gặp cái tận thiện, tận mỹ,
⇒ Cái đẹp làm tâm hồn anh như được gột rửa trong trẻo, tinh khôi.
Phùng là người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh tường, “nhà nghề” để lựa chọn cái đẹp hài hoà giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người – vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần.
- Cái đẹp đã làm Phùng xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình.
- Anh liên tưởng tới câu nói của ai đó “ bản thân cái đẹp chính là đạo đức” .
- Và tưởng chính mình vừa khám phá “cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
⇒ Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, khi cảm nhận cái đẹp hài hoà, lãng mạn giữa thiên nhiên và cuộc đời. Trong hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” giữa biển trời mờ sương, Phùng đã cảm nhận cái đẹp toàn bích và thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời.
b. Phát hiện thứ hai: Chiếc thuyền vào bờ với bức tranh cuộc đời.
- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một cảnh tượng không ngờ: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau… Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.
- Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng đã “kinh ngạc đến mức (…) há mồm ra mà nhìn” rồi sau đó thì “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác ( con lão đàn ông) đã kịp tới để che chở cho người mẹ .
- Đến lần thứ hai, bản chất người lính ở người nghệ sĩ được thể hiện. Anh xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác … Hành động của Phùng cho thấy anh không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác.
– Thái độ :
+kinh ngạc, bất ngờ “đứng há mồm ra mà nhìn”.
+ Bất bình “anh vứt máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
– Tâm trạng: Thất vọng, nuối tiếc trước cái đẹp” Phùng cay đắng nhận những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ”.
-Tác giả đã để cho nhân vật tự khám phá, phát hiện về đời sống: đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là cuộc sống tù đọng , nhẫn nhục của những người hàng chài vùng biển. Phùng cảm thông chua xót, anh trăn trở day dứt về về cuộc sống, về nghệ thuật. Trong cuộc sống bên cạnh cái đẹp và cái thiện luôn tồn tại cái xấu và cái ác. Cuộc đời còn nhiều góc khuất mà mà nghệ thuật cần phải lên tiếng.
⇒ Hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lí của sự toàn thiện” mà nó là những ngang trái, xấu xa, những bi kịch còn tồn tại trong cuộc sống.
2. Câu chuyện của của người đàn bà ở toà án huyện:
- Bề ngoài, đó là một người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng hành hạ, đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, nhưng vẫn gắn bó với người chồng vũ phu ấy.
- Nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh là tình thương với những đứa con: “… đám đàn bà hàng chài (…) cần phải có người đàn ông để chèo chống (…) để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa…. phải sống cho con chứ không thể sống cho mình….”.
- Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được.
- Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”, “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”.
⇒ Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp người đọc hiểu rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống.
3. Hình ảnh nhân vật người đàn bà hàng chài:
a. Lai lịch, ngoại hình:
– Trạc ngoài bốn mươi tuổi; chỉ được gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định, không tên tuổi.
– Có vẻ ngoài xấu xí “căn bệnh đậu mùa đã để lại những di chứng không bao giờ xoá được trên khuôn mặt của người đàn bà ấy”, thân hình “cao lớn”, “ thô kệch” với khuôn mặt lúc nào cũng “mệt mỏi”, lúc nào cũng chỉ với “lưng áo bạc phếch và rách rưới”.
⇒ Ngoại hình là hiện thân của một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ.
b. Cuộc đời, số phận:
– Nghèo khổ, tăm tối, ngang trái, cùng chồng chài lưới trên biển để nuôi một đàn con.
– Thường xuyên bị chồng đánh đập tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
c. Phẩm chất, tính cách:
– Cam chịu, nhẫn nhục, giàu lòng vị tha: Dù thường xuyên bị hành hạ, đánh đập thật tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng nỗi khổ chẳng bao giờ chịu lộ ngoài.Người đàn bà ấy âm thầm chịu đựng ” không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không hề tìm cách chạy trốn”, không hề oán trách chồng −> Sự cam chịu nhẫn nhục ấy cần sự cảm thông, chia sẻ, đáng trân trọng.
– Giàu lòng tự trọng: người đàn bà ấy chỉ lên tiếng khi thấy thằng Phác đánh lại cha, người đàn bà “đau đớn nhục nhã” khi có người ngoài chứng kiến.
– Thương con, giàu đức hi sinh: Mếu máu gọi con trong nước mắt “Phác ơi, con ơi” cho thằng Phác lên bờ ở để bảo vệ gia đình, bảo vệ con khỏi phải bị tổn thương. Chị chịu đựng tất cả miễn sao gia đình mình không đổ vỡ “phải sống cho con chứ không phải cho mình”
– Biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường: dù cuộc sống chất chứa đầy những khó khăn nhưng chị vẫn biết chắt chiu những hạnh phúc của đời thường “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ”, “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no”
– Sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời:
+ Luôn cảm thông cho chồng vì cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, độc ác → là người vợ bao dung, vị tha.
+ Vẫn nhất quyết gắn bó với người chồng vũ phu ấy bởi: Sống ngoài biển xa cần có người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên “Phải sống cho con chứ không thể cho mình”.
⇒ Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện đã giúp cho những người như Phùng và Đẩu và tất cả chúng ta hiểu rằng không thể đơn giản, dễ dãi trong việc nhìn nhận mọi điều trong cuộc sống. Nếu hiểu một việc người đà bà chỉ cần bỏ chồng là xong. Nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt ta sẽ cảm thông với chị , thật với hoàn cảnh ấy, không thể nào chị làm khác được.
⇒ Từ đó nhà văn muốn gửi đến thông điệp: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự vật hiện tượng trong các quan hệ đa dạng, nhiều chiều.
⇒ Đằng sau vẻ xấu xí, thô kệch của người đàn bà lạc hậu lại lấp lánh tình thương, lòng vị tha, đức hi sinh của người mẹ, là “hạt bụi vàng” lẩn khuất giữa cuộc sống lam lũ đời thường.
4. Hình ảnh người chồng vũ phu:
– Ngoại hình: “lưng rộng và cong như một chiếc thuyền “, “mái tóc tổ quạ” , “chân đi chữ bát” , “hàng lông mày cháy nắng” , “hai con mắt độc dữ” ⇒ Cuộc sống đói nghèo, lam lũ đã hằn in dáng vẻ khắc khổ ở người đàn ông hàng chài.
– Hành động: Vừa đánh vợ, vừa rên rỉ đau đớn.
⇒ Một sự giải tỏa uất ức, bế tắc. Gánh nặng mưu sinh khiến người chồng hiền lành trở thành một con người vũ phu thô bạo. Cuộc sống đói nghèo đã biến “anh con trai” cục tính nhưng hiền lành xưa kia thành một người chồng vũ phu. Lão đàn ông “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ” vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình.
⇒ Vừa đáng giận, vừa đáng thương.
5. Quá trình nhận thức của của phóng viên Phùng và chánh án Đẩu:
a. Nghệ sĩ Phùng:
– Phùng là kiểu nhân vật tự ý thức: tác giả đã để cho nhân vật tự khám phá, phát hiện về đời sống: đằng sau bức ảnh đẹp đẽ là cuộc sống tù đọng, nhẫn nhục của những người hàng chài vùng biển. Anh cảm thông chua xót,anh trăn trở day dứt về về cuộc sống, về nghệ thuật.
– Cũng giống như Đẩu, Phùng mới chỉ nhìn thấy cuộc đời của người phụ nữ vùng biển ở một vài biểu hiện bên ngoài. Anh có lòng tốt, không chấp nhận bất công, không chấp nhận sự tồn tại của cái ác và sự bạo tàn nhất là tại nơi anh đã từng chiến đấu để giành lấy lại từng mảnh đất
* Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài :
– Anh nhận thức được giá trị đích thực của cuộc sống: hạnh phúc đôi khi thật nhỏ bé, giản đơn. Sự tàn bạo có thể nảy sinh từ sự túng quẫn, bế tắc. Đằng sau vẻ ngoài xấu xí là hạt ngọc tâm hồn, lấp lánh tình thương của sự hi sinh thầm lặng.
– Chuyển biến trong nhận thức về nghệ thuật: Mối quan hệ giữa giữa bức ảnh nghệ thuật và hiện thực cuộc sống lam lũ đã thay đổi cách nhìn đời, nhìn người, điều đó khiến anh băn khoăn trở thành một nỗi ám ảnh : “Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy’ là một ảnh trắng đen nhưng lạ thay mỗi khi nhìn vào ấy Phùng lại thấy cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nhìn lâu hơn là hình ảnh người bà bà hàng chài bước ra lam lũ với tấm áo bạc phếch”. Đó là sự ám ảnh sâu sắc, cho thấy phải chăng Phùng đã một nghệ sĩ chân chính! Với Phùng bây cái hồn của bức tranh nghệ thuật ấy là người đàn bà lam lũ chính là vẻ đẹp rất đỗi bình dị của những con người lam lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật.
– “Màu hồng hồng của ánh sương mai”: Là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của nghệ thuật, và cũng là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời..
– Hình ảnh người đàn bà bước ra với tấm áo bạc phếch, lam lũ, khốn khổ: Là hiện thân của những cuộc đời lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời..
⇒ Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời.
⇒ Cuộc đời còn có nhiều góc khuất mà nghệ thuật cần phải vươn tới.
b. Chánh án Đẩu :
– Là bạn chiến đấu của Phùng, nay đã là chánh án ở toà án huyện.
– Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.
– Anh hào hứng và tin tưởng vào thiện chí của mình nên đã khuyện “người đàn bà li hôn” .
– Nhưng câu chuyện và những lí lẽ của người đàn bà đã thức tỉnh Đẩu:
+ Vì Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.
+ Anh ngộ ra những nghịch lí mà con người buộc phải chấp nhận “ Trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ hay tàn bạo” và thấy rằng lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ, lí lẽ đẹp đẽ là cần thiết nhưng phải có giải pháp thiết thực mới giúp con người thoát khỏi những khổ đau tăm tối.
⇒ lí thuyết sách vở của anh đã hoàn toàn thất bại trước lí lẽ sắc sảo của người đàn bà thất học nhưng thấu hiểu lẽ đời.
III. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
1. Nội dung:
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh mang đến bài học đúng đắn về cách nhìn nhận về cuộc sống và con người: một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bề ngoài của hiện tượng. Đồng thời là lời nhắn nhủ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời.
2. Nghệ thuật:
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
– Sử dụng thủ pháp đối lập tinh tế.
– Ngôn ngữ người kể chuyện: Phùng hóa thân của tác giả tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo, khách quan, giàu sức thuyết phục.
– Ngôn ngữ nhân vật : linh hoạt sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tính cách từng nhân vật.
* Một số đề ôn tập tham khảo:
- Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
- Anh, chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về nhân vật người đàn bà trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
- Phân tích diễn biến tâm trạng nghệ sĩ Phùng trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu). Từ đó, làm rõ nội dung tư tưởng của tác phẩm.
- Phân tích hành trình kiếm tìm lí tưởng nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa