Phân tích vẻ đẹp bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

phan-tich-ve-dep-bai-tho-tay-tien-cua-nha-tho-quang-dung-12787-2

Phân tích vẻ đẹp bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Quang Dũng là nhà thơ nổi tiếng trong nền thơ chống Pháp và chống Mĩ của nước. Quang Dũng là nghệ sĩ nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc nhưng tiêu biểu nhất là mảng thơ ca. Thơ Quang Dũng thể hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn, tinh tế, hồn nhiên, chân thật. Đặc biệt là khi ông viết về những người lính Tây Tiến và quê hương xứ Đoài của mình. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ ấy Quang Dũng. Vẻ đẹp bài thơ Tây Tiến thể hiện sâu sắc qua nỗi nhớ núi rừng, con người miền Tây và lời thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của người lính Tây Tiến một lòng thủy chung với đất nước.

Cảm hứng sáng tác.

Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối họp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào. Địa bàn hoạt động của Tây Tiến là vùng rừng núi khá rộng và đầy khắc nghiệt, hiểm nguy, trải dài từ Sơn La đến miền Tây Thanh Hóa và qua cả Sầm Nưa của Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn vật chất, bệnh tật hoành hành nhưng họ rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng của Tây Tiến.

Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948, khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị, rời xa binh đoàn Tây Tiến. Tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông), Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”. Đây cũng là lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn phòng ngự đầy khó khăn gian khổ nhưng cũng rất lạc quan. Bài thơ gồm 4 đoạn thơ. Mỗi đoạn thể hiện một nỗi nhớ cụ thể da diết của tác giả về những kỉ niệm với núi rừng Tây Bắc, với đoàn quân Tây Tiến.

Nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Tây Tiến.

Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thiết tha và tự hào của tác giả về người lính Vệ quốc quân trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ và oanh liệt hào hùng. Nỗi nhớ đơn vị xưa cùng cảnh núi rừng hòa quyện trong cảm xúc tha thiết và thẳm sâu của Quang Dũng. Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi thân thương, trìu mến, thiết tha:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Nỗi nhớ da diết bao trùm cả không gian và thời gian: nhớ Tây Bắc, nhớ những con người Tây Bắc và nhớ những người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ ấy giờ đã trở thành những kỉ niệm không thể phai mờ trong tâm trí nhà thơ và hiện tại đang như một thước phim quay chậm cứ hiện dần về trong tâm trí để đưa ông trở về với quá khứ. Nhớ “chơi vơi” vừa là một nỗi nhớ trải rộng tới nhiều đối tượng trong kí ức, vừa có tác dụng hình tượng hóa nỗi nhớ, vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ để rồi bật lên thành tiếng gọi đầy thân thương và trìu mến “xa rồi Tây Tiến ơi”.

Tiếp đến, bức tranh về núi rừng Tây Bắc hiện ra hết sức kì vĩ. Đó là một thiên nhiên dữ dội và nguy hiểm. Vùng đất miền Tây ấy chính là địa bàn hoạt động của những người lính Tây Tiến, một vùng đất mà lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm và có nhiều thú dữ, vì thế mà những người lính Tây Tiến tử vong vì ốm đau bệnh tật sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận.

Sự xuất hiện của hàng loạt các địa danh với những cái tên rất lạ như sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… Đã đưa người đọc đến với một không gian núi rừng xa xôi, lạ lẫm:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Ta bắt gặp ở đây hình ảnh một đoàn quân mệt mỏi đang bị sương núi mờ mịt lạnh lùng làm khuất lấp thì ngay sau đó lại xuất hiện “hoa về trong đêm hơi” đã phần nào làm tan biến đi sự mệt mỏi của những người lính sau chặng đường hành quân cực nhọc.

Tiếp đó là một khung cảnh núi rừng được tái hiện bằng những ngôn từ táo bạo đầy giá trị tạo hình và những hình ảnh đặc tả sự hoang vu, heo hút, dữ dội và nguy hiểm: đèo cao, sương lấp, dốc khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút và đặc biệt là hình ảnh cực tả độ cao của đèo dốc “súng ngửi trời”. “Súng ngửi trời” một hình ảnh vừa táo bạo, vừa ngộ nghĩnh lại mang những nét tinh nghịch của người lính, đó cũng là một cách miêu tả rất riêng trong ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng.

Đặc biệt câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” như bị bẻ gập đôi diễn tả cao gần như thẳng đứng của dốc núi, nhìn lên cao thì chót vót đến chóng mặt mà nhìn xuống thì sâu hun hút là cho người đọc “như được thể nghiệm một trò chơi bập bênh chóng mặt”. Nhưng câu thơ ngay đó lại được tác giả vẻ bằng một nét mềm mại, uyển chuyển toàn thanh bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” như để lấy lại “thăng bằng” cho bài thơ và cân bằng lại cảm xúc cho người đọc. Từ trên đỉnh núi cao, người lính tạm dừng chân hướng cái nhìn về phía xa xa thấy những nếp nhà ẩn hiện thấp thoáng sau một màn mưa mênh mang và những làn sương mịt mờ.

Thiên nhiên hoang vu, dữ dội đang ẩn chứa đầy sự nguy hiểm đang rình rập con người, đặc biệt là những người lính Tây Tiến, còn được tác giả khám phá ở chiều thời gian:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Tiếng thác gầm thét, hổ dữ rình rập cùng với bóng đêm của rừng đại ngàn như đang phối hợp với nhau tạo nên mối đe dọa khủng khiếp đối với những người lính. Theo nhà thơ Trần Lê Văn thì câu thơ “Đêm đêm Mường Hịch cọp trên người” .

Hai chữ có dấu nặng đi với  nhau nghe nặng như tiếng chân cọp. Có điều kì lạ là nếu ta thay hai chữ “Mường Hịch” bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn (…) thì hiệu lực câu thơ giảm súc ngay. Đó quả là một nhận xét rất tinh tế! Tuy nhiên sự nguy hiểm lại được tác giả diễn tả bằng cách nói ngộ nghĩnh “cọp trêu người” khiến cho câu thơ trở nên nhẹ tênh đúng với chất lính.

Đó cũng là một thiên nhiên thơ mộng, mĩ lệ. Hình ảnh núi rừng Tây Bắc dữ dội, nguy hiểm được thay thế bằng một hình ảnh núi rừng thơ mộng, mĩ lệ với những nét tinh tế mềm mại:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai châu mùa e thơm nếp xôi

Những ấn tượng về Tây Tiến, về vùng đất Mai Châu đầy tình nghĩa được bật lên thành những vần thơ chất chứa đầy nỗi nhớ. Có lẽ những người lính Tây Tiến sau những chặng đường dài hành quân đầy gian nan, sau những tháng ngày phải chống chọi với đói rét, bệnh tật thì giờ đây họ mới có được phút giây nghĩ ngơi, quân quần bên những nồi cơm dẻo thơm nghi ngút khói. Đêm lửa hội được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất ảo:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Tất cả cảnh vật cũng như con người đều “bừng lên” trong đêm sinh hoạt lửa trại vừa như thực vừa như ảo, trong ánh lửa bập bùng tất cả như đang bốc men say, mê đi trong những tiếng khèn réo rắt, những điệu mùa và cả những dáng hình vũ nữ… Sự xuất hiện bất ngờ của những thiếu nữ nơi núi rừng với những bộ xiêm áo lộng lẫy và dáng vẻ e ấp, tình tứ trong những “man điệu” khiến cho những người lính không khỏi ngạc nhiên ngỡ ngàng, thích thú. Và rồi hồn thơ tinh tế của tác giả lại đưa người đọc đến với một cuộc tiễn biệt trong “chiều sương” vừa mênh mang, vừa mờ ảo:

Người đi Mộc Châu chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Đó là không gian của một buổi chiều sương trên dòng sông lặng ngắt như tờ xuất hiện dáng hình một người con gái uyển chuyển trên chiếc thuyền độc mộc và những bông hoa như cũng đang “đong đưa” khiến cho cảnh vật như có hồn. Có thể nói thiên nhiên Tây Bắc hiện lên không chỉ mang vẻ dữ dội, hiểm nguy mà còn mang vẻ đẹp của một thế giới cổ tích, vừa thơ mộng, vừa huyền ảo.

Hình ảnh oai hùng, lẫm liệt của người lính Tây Tiến.

Thơ ca thời kì kháng chiến đã có không ít các nhà thơ viết về người lính nhất là khi nói về những khó khăn gian khổ mà họ phải trải qua đặc biệt là những cơn sốt rét rừng quái ác. Nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí đã miêu tả rất rõ điều đó:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi

Còn trong bài Cá nước, Tố Hữu cũng không quên điều đó khi viết về những anh lính Vệ quốc:

Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.

Với Quang Dũng, nhà thơ cũng không hề che giấu điều đó mà còn ngược lại ông còn miêu tả rất thực thậm chí ngay cả nói đến những sự mất mát hi sinh nhưng lại bằng một cái nhìn mang đậm màu sắc lãng mạn. Bằng những chi tiết chọn lọc tiêu biểu, Quang Dũng đã xây dựng thành công hình tượng những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp bi tráng chứ không hề bi lụy:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hình ảnh những cái đầu “không mọc tóc” ấy có thể sẽ khiến cho đọc giả ngỡ ngàng hay cho đó là một sự miêu tả thái quá của nhà thơ. Thực ra đó không phải là sản phẩm do nhà thơ tưởng tượng mà đó là sự thật với những người lính Tây Tiến đó đâu phải chuyện lạ bởi trong số họ có người thì cạo trọc giống như những anh Vệ quốc để khi đánh giáp là cà với giặc thì thuận tiện, có người do bệnh sốt rét rừng hành hạ không có thuốc chữa khiến cho tóc rụng hết. Nhưng qua cách nói mang đậm chất lính của nhà thơ, ta có cảm giác như tóc “không thèm mọc” vậy.

Đâu chỉ có vậy, cái dáng vẻ bề ngoài của người lính Tây Tiến cũng xanh xao “quân xanh màu lá” vì đói, vì sốt rét rừng nhưng dưới con mắt nhà thơ thì họ hiện lên với một dáng vẻ oai phong, dữ dội của chúa sơn lâm “dữ oai hùm”. Dáng vẻ ấy như làm khuất lấp đi cái đói, rét và ốm đau bệnh tật của những người lính.

Những người lính Tây Tiến hầu hết họ đều là những chàng trai gốc Hà Nội. Họ ra đi vì lí tưởng cao đẹp, vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Họ mang trong mình dòng máu hào hùng của những chàng trai đất Hà thành “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Vì thế họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” cho dù họ luôn chứng kiến cảnh những nấm mồ của đồng đội nằm lạnh lẽo “rải rác biên cương” trên suốt chặng đường hành quân:

Bên trong những người người lính ấy còn mang dòng máu lãng mạn của những chàng trai hào hoa đất Hà thành. Vì vậy trái tim trẻ trung của họ vẫn khát khao yêu thương. Họ vẫn “gửi mộng qua biên giới”, vẫn mơ về Hà Nội với những dáng kiều thơm. Phải chăng họ ra đi để cho một Hà Nội thanh bình và cho cả những “dáng kiều thơm” ấy?!

Khi nói về sự mất mát, hi sinh của những người lính Tây Tiến qua cách miêu tả của Quang Dũng, những mất mát hi sinh ấy không hề bi thương mà ngược lại rất hào hùng, bi tráng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Một sự thật nghiệt ngã không khỏi khiến người đọc xót xa. Người lính Tây Tiến nằm xuống không một manh chiếu che thân và thậm chí đồng đội cũng không kịp nói lời tiễn biệt. Nhưng qua cái nhìn của Quang Dũng, họ lại được bọc trong những chiếc “áo bào” và dòng sông Mã đã tấu lên “khúc độc hành” như một lời tiễn biệt đưa các anh về với đất mẹ thiêng liêng. Lời thơ còn thể hiện sự tiếc thương vô hạn, sự trân trọng và cũng là lời tiễn biệt của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Bài thơ khép lại bằng những vần thơ toát lên vể hào hùng của những người lính Tây Tiến:

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Đó vẫn chính là tinh thần chung của thời đại những người lính Tây Tiến, tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) đã ăn sâu vào tâm trí của những người lính Tây Tiến anh hùng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.Thời oai hùng của những người lính Tây Tiến đã lùi xa nhưng hình ảnh về các anh vẫn mãi là một bài ca bất tử:

Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông

(Giang Nam) 

Thông qua nỗi nhớ của Quang Dũng về người lính Tây Tiến, người đọc thấy được chân dung và phẩm chất của người Vệ quốc quân trong thời kỳ dầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ chịu nhiều gian khổ, thiếu thốn, chiến đấu trên một địa bàn hành quân dài rộng, núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, bệnh tật, cái chết luôn rình rập đe dọa …Họ có tinh thần dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. Bên trong nhưng người lính là tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời và có tình đồng đội thủy chung trong sáng. Đó là những tráng sĩ vừa oai phong lẫm liệt, vừa hào hoa, hào hùng và là niềm tự hào của tác giả Quang Dũng.

Bài thơ thể hiện nét đặc sắc tài hoa của Quang Dũng. Tây Tiến có sự kết hợp đặc sắc giữa hai nguồn cảm hứng lớn: cảm hứng lãng mạng và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng man thể hiên ở cái tôi đầy cảm xúc và phát huy cao độ trí tưởng tượng; sử dụng rộng rãi thủ pháp tương phản, đối lập để miêu tả cảnh và người gây ấn tượng mạnh. Tinh thần bi tráng thể hiện ở việc nhà thơ không lẩn tránh hiện thực mà đề cập thẳng đến cái bi thương, đến cái chết; tô đậm cái bi thương, cái chết bằng âm hưởng đẹp, đầy tráng lệ, hào hùng.

Cái tài của Quang Dũng là viết về chiến tranh nhưng không hề có trận đánh, máu đổ mà người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Nhà thơ nhẹ nhàng hóa cái chết của những người lính bằng những từ ngữ nhẹ nhàng, thanh thoát rất phù họp với chất hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến. Cách sử dụng ngôn từ gợi tả, gợi cảm, giàu nhạc điệu, hình ảnh thơ giàu chất hội họa đẹp như tranh.

Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính Cách mạng, ra đời ngay trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của thơ ca Việt Nam sau 1945. Bài thơ mang nét hào khí lãng mạn của một giai đoạn đấu tranh đầy hào khí anh dũng của dân tộc.

Bằng nghệ thuật tạo hình đặc sắc, âm điệu da diết, bút pháp lãng mạn tinh tế nhà thơ đã đưa người đọc đến với vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc và những người lính hào hoa, hào hùng. Tây tiến là tiếng hát lên đường của một thế hệ quyết dấn thân với tất cả men say của người dân mất nước bấy lâu khát khao độc lập tự do và của một nghệ sĩ vốn yêu, mê cái đẹp, lí tưởng đẹp. Dấu mình không tính toán chi li, không suy bì hơn thiệt. Dấn mình đến mức nếu cần thì cả tính mệnh cũng không tiếc nữa.

Tham Khảo Thêm:  Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật mang tính cách điểm hình trong Đời thừa của Nam Cao

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *