Cách làm bài văn cảm nhận một tác phẩm thơ

cach-lam-bai-van-cam-nhan-mot-tac-pham-tho

Làm thế nào để một bài thơ trở thành một tác phẩm thơ.

1. Cảm nhận bài thơ.

Đọc tác phẩm văn học, trước hết chúng ta sẽ tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật của một loại hình nghệ thuật cụ thể. Đó là dấu câu và nhịp điệu, vần điệu, âm vang và nhạc tính, từ ngữ và hình ảnh, tổ chức câu và đoạn, văn bản và thể loại văn bản… Cảm thụ văn học không thể tách rời văn bản, trước hết phải tuân thủ hình thức biểu đạt của ngôn từ nghệ thuật đồng thời chỉ ra vai trò của chúng trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa. Cho nên chúng tôi cảm thấy thơ trữ tình phải dựa vào thơ.

1. Cảm nhận nhịp thơ:

Nhịp điệu có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong thơ trữ tình. Nó giúp nhà thơ nâng cao khả năng diễn đạt, cảm xúc. Phân tích thơ trữ tình không thể không chú ý đến phân tích nhịp điệu thơ. Để xác định nhịp điệu của từng bài thơ, ngoài việc đọc từng khổ thơ để cảm nhận âm điệu, làm nhẹ bài thơ, còn phải nắm được đặc điểm chung của từng thể loại. Thông thường, nhịp thơ âm tiết uyển chuyển, mềm mại, thanh thoát, nhịp điệu vần hài hòa, chặt chẽ, nhịp thơ tự do, thơ hiện đại rất tự do, dễ dãi và phong phú.

Trong thơ trữ tình, chân ngôn cùng với dấu câu cần được coi là từ đa nghĩa, từ đặc biệt trong ngôn ngữ chung của nhân loại. Chúng ta đều biết rằng trong những tình huống giao tiếp thông thường của cuộc sống, sự im lặng đôi khi nói lên rất nhiều điều: lúc hận thù tột đỉnh, lúc sôi nổi, lúc cô đơn, lúc buồn bã, lúc xúc động. ……Tính cách. Ngắt nhịp là một trong những phương tiện hữu hiệu thể hiện sự “im lặng phi ngôn ngữ” tạo ra “những ý ngoại ngữ” và tạo ra những hàm ý khó diễn đạt.

Ví dụ: khi dạy đọc thuộc lòng trên lớp “Sau phút biệt ly. “ Ta đã thấy tâm trạng của thi nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sự tổ chức và vận hành của nhịp điệu ca dao. Với cảm giác luyến tiếc, bùi ngùi của kẻ chiến thắng bị chia lìa. Phải đọc đúng chỗ ngắt câu kinh thì mới phân tích sâu được.

2. Cảm nhận nhịp điệu.

Người Việt Nam có rất nhiều âm nhạc. Hệ thống vần điệu là yếu tố cơ bản cấu thành nhạc tính của tiếng Việt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học. Vì vậy, khi phân tích thơ trữ tình, giáo viên cần chú ý phân tích nhịp điệu, cách gieo vần.

Đĩa ảo:

Cùng ngoảnh lại mà chẳng thấy
Xem có bao nhiêu quả dâu tây xanh
1000 quả việt quất cắt từng quả một
Lòng ai buồn hơn ai.

Câu cuối cùng vần, cao thấp cùng thanh điệu, phát ra âm dài. Đây là sự hài hòa đến từ sự sắp xếp âm thanh của hai tâm thất. Xét từng cặp câu, ta thấy được sự hòa hợp giữa câu 1 và câu 2, giữa câu 3 và câu 4 nhờ có vần 7 thăng trước ở câu 7 và sự tương đồng giữa tiếng thứ 5 và tiếng 6 của câu 7. Âm tiết thứ sáu của câu thơ thứ sáu và thứ tám trong thang âm sáu quãng tám. Qua sự hài hòa của các câu thơ như ôm ấp, ôm lấy nhau trong từng đoạn hay cả bài thơ tạo nên cảm giác thanh bình, rộng lớn, trang nghiêm, man mác buồn trong các câu thơ, góp phần bộc lộ cảm xúc của nhân vật. trữ tình.

Tạo nên nhạc tính của thơ không chỉ là hệ thống nhịp điệu, thanh điệu mà âm thanh của mỗi từ cũng có giá trị biểu cảm nhất định. Theo Đinh Trọng Lạc, âm “a” gợi niềm vui khôn xiết, “nhìn nhau cười” (Phạm Tiến Duật), âm “r” thể hiện sự sợ hãi, khiếp đảm, “dòng suối sợ rung lá”. (Xuân xuân) Diệu), những tiếng “u”, “âu” gợi lên nỗi sầu, “thấy xanh là mấy ngàn dâu – Nghìn dâu xanh một màu”.

Có thể đưa ra nhiều ví dụ minh họa cho nhạc tính của tiếng Việt trong thơ ca. Giáo viên cần hết sức lưu ý yếu tố này khi phân tích tác phẩm văn học (đặc biệt là thơ). Khi nhận thấy âm hưởng, nhạc điệu của các câu thơ không bình thường, có những biến đổi thì phân tích chính để chỉ ra giá trị, chức năng, nhiệm vụ của chúng trong việc thể hiện nội dung.

3. Quy nạp từ và tu từ:

Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong hình thức tài liệu truyền miệng. Vì tất cả những nội dung cần thể hiện trong tác phẩm văn học đều không thể nhờ hệ thống từ ngữ đó. Các thiết bị như dấu chấm câu theo ngữ âm được mô tả ở trên chỉ có ý nghĩa trong các văn bản dựa trên từ. Nhà văn muốn mô tả và đại diện cho thực tế thông qua các từ. Để đánh giá một nhà văn viết những điều này như thế nào, chúng ta phải bắt đầu từ câu chữ trong bài “Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ”. Chính vì tầm quan trọng đó mà lao động của nhà văn được coi là lao động văn học. Có thể nói, ngôn ngữ là một đặc điểm quan trọng và nổi bật của văn học. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý những điểm sau trong quá trình giảng dạy:

——Thứ nhất: Cảm thụ văn học không thể tách rời và bỏ qua hình vị. Muốn phân tích một từ hay, trước hết phải nắm được nghĩa của từ (nghĩa chung và nghĩa trong ngữ cảnh cụ thể), sau đó suy nghĩ và thường xuyên đặt câu hỏi: Tại sao tác giả lại dùng từ này mà không dùng từ khác?Ví dụ: trong bài viết “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh“Khổ đầu bài “Sàng tiền Minh Nguyệt Quang” của Lý Bạch, tại sao tác giả lại dùng từ này “chuẩn bị” không một lời nào “thượng đẳng” Có phải là giường không? Hoặc tại sao từ này lại xuất hiện thường xuyên như vậy? Từ này có bao nhiêu từ đồng nghĩa? Tôi có thể thay đổi từ? Ví dụ: Trong câu thơ cuối bài “Tiếng gà trưa” (Xuân Quỳnh), có thể thay từ “vì” bằng từ khác được không? Tại sao tác giả lại dùng từ này? Hoặc giáo viên có thể hỏi “Từ nào trong câu đó cần chú ý?”

Học sinh biết bài thơ có từ đắt nhất. Trên thực tế, một số giáo viên chưa chú ý đến cốt truyện, còn nhiệt tình khen những từ không phải là thơ, gây lãng phí thời gian và không làm nổi bật bài thơ. Trong trường hợp phân tích thơ và văn học dịch, cần hết sức cẩn thận khi phân tích từ ngữ. Bởi vì những từ đưa ra nhận xét không nhất thiết phải là những từ mà tác giả đã sử dụng trong văn bản gốc.

– Thứ hai: Người ta thường nói phân tích hình tượng trong tác phẩm văn học, nhưng phân tích hình tượng trong tác phẩm văn học là phân tích văn bản. Nhiều người lầm tưởng rằng phân tích văn bản và hình ảnh là khác nhau, nhưng thực ra chúng giống nhau. Ví dụ: Bài thơ của Nguyễn Đức tả chân dung Tuba.

Da nhợt nhạt tức thì
Em ăn gì mà lớn thế?

(Truyện hải ngoại)

Đoạn thơ miêu tả chính xác tâm hồn của tên chủ chứa, đồ tể và kẻ buôn người. Ta cũng thấy rõ thái độ của tác giả đối với hạng người đó. Từ “lẳng lơ” có thể miêu tả chính xác nhất sự quyến rũ của Tú Bà! Nói cách khác, nó thực sự khó diễn tả: nó bóng, bóng hay vàng? Đó là một khuôn mặt “mất vệ sinh”, và các nhà phê bình nói rằng chúng ta đọc câu thơ với một cảm giác ghê tởm. Còn từ “ăn gì” hình như đang liệt nữ chính vào giống loài không phải người. Vì cũng như con người, họ ăn cơm, thịt, gạo, cá… Nhà nước Chu “ăn” cái gì?Chẳng hạn, có thể thấy việc phân tích hình ảnh, phân tích văn bản là điều giáo viên cần lưu ý

– Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ, hình ảnh, cảm xúc phong phú, đa dạng:

Đĩa ảo:

+ Gợi cảm xúc, vd: bối rối, bối rối, bối rối…

+ Tín hiệu thị giác: kéo, lượn, bám…

+ Gợi nghe: mặn chát, chua chua, ngọt ngọt…

+ Tín hiệu xúc giác: lạnh, nóng, thô…

——Thứ ba: Tạo hình tượng để tả và viết, dùng từ để gọi hình tượng. Nhà văn có thể sử dụng những từ sau đây, đôi khi là từ ghép:

Đĩa ảo:

Cảm nhận của tôi về Huế
Nhưng trời đổ cơn mưa trút xuống bầu trời

(Mẹ Tôm – Tố Hữu)

Đĩa ảo:

lĩnh vực tôi đã gửi người bạn thân nhất của mình cho đến khi
Ngôi nhà sẽ không để gió lay

(Toshiba – Chính Hữu)

——Thứ tư: Ngôn ngữ và văn học là ngôn ngữ được bóc tách từ ngôn ngữ đời thường, được nâng cấp, sửa chữa để nó sáng bóng hơn, phong phú hơn, đẹp đẽ hơn. Tu từ là một phương tiện quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ làm đẹp ngôn ngữ văn học. Có nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, so sánh, điệp ngữ… Tất cả những biện pháp này nhằm giúp người nói, người viết có cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn, phong phú hơn và do đó hiệu quả hơn. Phân tích biện pháp tu từ giáo viên cần chỉ ra hiệu quả của các phong cách viết, nói, vai trò, tác dụng của chúng đối với miêu tả và biểu cảm chứ không chỉ nêu tên, liệt kê các biện pháp tác giả đã sử dụng.

4. Thời gian và không gian trong thơ trữ tình:

Không gian trong thơ trữ tình là nơi tác giả – cái tôi trữ tình hay nhân vật trữ tình – thể hiện nội tâm của mình. Không gian thường gắn với những địa danh tượng trưng cho địa danh, như cây đa, bến nước, nhà công vụ, giếng nước, núi non, biển sâu, trời rộng, sông dài, v.v. Nhiều nơi riêng tư đã trở thành không gian của những biểu tượng văn học. Như: Hồ Tiêu, Tầm Dương , Cô Tô, Xích Bích, Tây Thiên, Địa Ngục, Thiên Đường, Bồng Lai, Tiên Cảnh, Cõi Phật, Suối Vàng….
Khi đọc tác phẩm văn học, ta nên chú ý xem tác giả miêu tả ở đây là không gian gì, không gian đó có ý nghĩa gì, thông qua không gian đó có thể biểu đạt những nội dung sâu sắc gì.

hai. Làm thế nào để viết một bài báo tốt?

Cảm thụ văn học trước hết là phát hiện cái hay, cái đẹp của thơ, xin theo gợi ý sau:

+ Bước 1: Đọc kĩ các bài văn, thơ cần học

+ Bước 2: Nội dung đoạn văn, bài thơ nói lên điều gì?

+ Bước 3: Biết nghệ thuật trong bài (dùng từ, đặt câu, các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, điệp ngữ…)

+ Bước 4: Suy nghĩ, cảm nhận và bài học rút ra (nếu có) của em khi đọc đoạn văn, bài thơ đó.

+ Bước 5: Sắp xếp nội dung trên thành một đoạn văn ngắn, có câu mở đầu, câu kết bài.

Văn miêu tả (phân tích, cảm nhận) về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

Chủ đề liên quan:

Tham Khảo Thêm:  Suy nghĩ về văn hóa đọc sách của giới trẻ ngày nay

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *