
Nét nghệ thuật của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
Dựa trên những sự kiện lịch sử có thật ở thế kỷ 16, Nguyễn Huy Tưởng đã dựng nên vở tuồng hiện đại “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” bằng tài hư cấu, qua 5 hồi ông bày tỏ nỗi trăn trở về số phận cái đẹp và số phận người nghệ sĩ trước hiện thực . Xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Chỉ là một đoạn trích nhưng có đầy đủ các yếu tố của một vở kịch: thắt nút (xung đột), cao trào xung đột và mở đầu (giải quyết xung đột). Không khí và nhịp điệu của sự việc được diễn tả theo hướng tăng tốc, thể hiện sự gay gắt của các mâu thuẫn và dần dần đẩy xung đột kịch tính lên cao trào. Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô là nút thắt của xung đột. Sự ra đi vĩnh viễn của cả hai bên đã giải quyết xung đột. Trong toàn bộ vở kịch, tình tiết này là cao trào và giải quyết mâu thuẫn lớn nhất trong toàn bộ vở kịch.
Đoạn trích này thể hiện rõ đặc điểm nghệ thuật kịch của Ruan Huixiang: kỹ năng ngôn ngữ điêu luyện và tính toàn diện mạnh mẽ. Đặc biệt, nhà biên kịch sử dụng ngôn ngữ và hành động của nhân vật để miêu tả nhân vật và dẫn dắt toàn bộ vở kịch. Mỗi đoạn đối thoại, mỗi ngôn ngữ mà các nhân vật thốt ra đều vẽ nên một bức tranh về cảm xúc và tình cảm của họ dành cho nhau, cũng như con người của chính họ tại thời điểm diễn ra các sự kiện.
Nhịp điệu của cốt truyện ngày càng cao hơn, đặc biệt là khi cao trào đang đến gần, và cuối cùng đã đạt đến điểm nhấn, cho thấy bối cảnh có nhịp độ nhanh của câu chuyện vào thời điểm đó. Ngoài ra, còn có các chú thích được tác giả đánh dấu in nghiêng trong ngoặc đơn giúp người đọc hiểu diễn biến trong vở kịch, nội dung xung đột cốt truyện, hành động của các nhân vật một cách trực quan hơn, gây hứng thú hơn. Thể hiện rõ hơn đặc điểm của mỗi người.
Đặc biệt. Ở bậc I hay bậc V có Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Đây là sự tôn trọng lẫn nhau của cả hai bên. Đan Thiềm gọi Như Tô là “lão gia” với vẻ kính trọng, nàng rất lo lắng khi có chuyện. “Bạn nghe tôi này! Nó bỏ chạy! Nó nghe tôi! Bạn phải chạy đi!” hoặc “Tránh ra! Trốn đi”. Lời lẽ ngắn gọn, khẩn thiết, có dấu chấm than thể hiện sự quan tâm và lời khẳng định tuyệt đối mà nàng nói, Đan Thiềm đành làm theo, bày tỏ tình cảm chân thành với Vũ Như Tô. .
Khác với sự lo lắng của Đan Tâm, Ngô Đồ tỏ ra bình tĩnh và khẳng định: “Đột phá Cửu tầng? Không bao giờ! Và tôi không làm gì sai cả. Họ hiểu lầm rồi” hay “Anh ở đây, vậy tôi cũng ở đây, chúng ta đều là tất cả”. lâm nguy.” Lời văn ngắn gọn nhưng bao quát được tâm tư, tính cách của từng nhân vật. Đan Thiềm lo lắng cho số phận của người mình yêu – một người tài hoa, Vũ Như Tô tin chắc rằng công lý sẽ bảo vệ người đàn ông mình đã có công vì nước. Hãy là một người bạn tốt và chia sẻ những khó khăn.
Mỗi đoạn đối thoại ngắn là một tâm trạng, một cảm xúc mãnh liệt cho một nhân vật. Những câu nói giản dị hàng ngày giữa những con người thân quen vẫn thể hiện được cảm xúc sẵn có của mỗi người một cách tinh tế và sâu sắc. Nhân vật chính Wu Rutao, một nông dân tài năng, hết mình vì nghệ thuật và phục vụ đất nước bằng nghệ thuật, bảo vệ lý tưởng nghệ thuật của mình đến cùng và phác thảo nó một cách sinh động trong vài từ. hội thoại. Đặc biệt ở bài thứ chín, luận điểm này được thể hiện rất sinh động, khi quân lính đưa Ngô Tử ra pháp trường, tác giả sử dụng ngôn ngữ nhân vật để khắc họa sâu hơn mâu thuẫn giữa nghệ sĩ và thị dân. Ở ông, qua đối thoại, độc thoại, hành động:
“VÔ NHƯ THỌ (nhìn ra, hú lên) – CHÁY! CHÁY THẬT! Hỡi ác đảng! OH TẤT CẢ GHÉT! OMG! Phú cho tôi tài năng để làm gì? Ôi những giấc mơ vĩ đại ôi dân tim! ôi kokudai! Vũ Như Tô bàng hoàng, đau xót trước sự hủy hoại đứa con tinh thần mà mình đã dày công gây dựng, và tất nhiên ông tin thiên hạ sẽ ghi nhận những cống hiến của mình. Đây là một xa xỉ những ngày này.
Đến đây, chúng ta có thể thấy rõ tác dụng của ngôn ngữ kịch! Nhịp điệu nhanh ngắn gọn nhưng có tính tổng hợp cao, có dấu chấm than, dấu phẩy, dấu chấm hỏi… y như cảm xúc của chính nhân vật, chuyển từ loại này sang loại khác, từ bình tĩnh, lo lắng, hy vọng và cuối cùng là tuyệt vọng. Các phụ đề, động tác, tiếng hét, tiếng hét phát ra sau đó, các từ ngữ dùng để miêu tả “thở hổn hển, co giật, hú, khóc, sốt ruột, dậm chân, quỳ gối, cười” hoặc bộc lộ cảm xúc “hy vọng, khinh bỉ, thất vọng” Các từ ngữ biểu cảm… đều phản ánh chân thực khung cảnh hỗn loạn, cao trào của mâu thuẫn và cảm xúc giằng xé của từng nhân vật. kịch.
Đoạn trích cũng thể hiện tài năng của Nguyễn Huy Sưởng trong việc xây dựng kịch bản, lớp vở kịch ngắn thay đổi liên tục nhưng vẫn bao quát được diễn biến của câu chuyện, thể hiện được bản chất của vở kịch. Ngoài ra, việc sắp đặt nhân vật vào vùng cấm, tên các vùng đất cụ thể, nhân vật ít nhiều có yếu tố lịch sử khiến vở diễn mang tính kỷ niệm, lịch sử, chân thực và truyền cảm. người đọc, khán giả.