
Quan điểm nghệ thuật của Tào Nan trước Cách mạng tháng Tám
Nam Cao đặc biệt là cây bút lớn của dòng văn học hiện thực phê phán và là cây bút lớn của nền văn học Việt Nam. Nancao sở dĩ có được địa vị như vậy là do cả đời làm văn, ông đã nỗ lực cải thiện “đôi mắt” của mình. Nancao để lại cho cuộc đời ông một hình mẫu “trí thức vô cùng trung thực”, luôn phấn đấu vươn tới những cảnh đẹp của cuộc đời và tâm hồn. Nam Cao có những nét tiêu biểu như vậy, thể hiện một cách có hệ thống những quan điểm sáng tạo trước Cách mạng tháng Tám.
Quan điểm nghệ thuật của Nam Thảo trước Cách mạng tháng Tám được thể hiện qua “Trăng sáng” và “Vạn đạo”. Trong “Trăng sáng”, nhà văn quan niệm rằng văn học nghệ thuật phải là “người”, nhà văn phải thực sự viết về những cái có thực trong cuộc sống, phải sống thực sự trong xã hội mà mình đang sống. Ông viết: “Chà! Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, càng không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là âm thanh của nỗi đau, phát ra từ kiếp người khốn khổ”. Đây chính là quan điểm nghệ thuật của Cao Nan.
Trước cách mạng, Nam Tào mang tâm trạng u uất, đó không chỉ là tâm trạng của người nghệ sĩ “tài cao mà tính tình thô tục” (do Tản Đà thủ vai) mà còn là nỗi niềm của những người trí thức. Nhiệt huyết, nhưng cuộc sống đang bị thế giới ngầm bóp nghẹt. Nhưng Nan Cao không vì bất mãn cá nhân mà bất mãn. Ngược lại, ông còn có tấm lòng đầy tình thương đối với những người nghèo khổ. Chính vì thế văn chương của ông luôn nói lên “tiếng đau của một kiếp người lầm than”.
Trong “Lãnh đạo”, một tác phẩm tiêu biểu của văn học tiền khởi nghĩa, Nam Cao cũng có những nhận thức nghệ thuật. Khi đã chọn văn học nghệ thuật là sự nghiệp của mình thì chúng ta phải cống hiến hết mình thì mới có thể sáng tác nghệ thuật tốt được. “Đói rét không nghĩa lý gì đối với một chàng trai trẻ lý tưởng. Anh ấy có một trái tim đẹp. Anh ấy có những hoài bão lớn trong tim. Anh ấy coi thường những mối quan tâm nhỏ nhặt về vật chất. Anh ấy chỉ quan tâm đến việc trau dồi những món quà của mình và để chúng ngày càng lớn hơn. Anh ấy đọc , suy nghĩ, tìm tòi, phê bình, nghiền ngẫm, không bao giờ chán, với anh lúc đó, nghề nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật ra chẳng còn gì để quan tâm…”.
Nam Tào cũng cho rằng người viết phải có lương tâm, có trách nhiệm với độc giả, phải viết cẩn thận, sâu sắc: “Chểnh mảng ở ngành nào cũng là bất lương, viết cẩu thả còn là bất lương. Chương là đáng khinh. Đối với Tào Nam, bản chất của văn chương đồng nghĩa với sáng tạo”. Văn chương không cần những người thợ lành nghề theo khuôn mẫu đã có sẵn. Văn chương chỉ đón nhận những người biết đào sâu, biết tìm tòi. Tìm những nguồn chưa khơi và sáng tạo ra những nội dung chưa có. Quan điểm của Nam Cao là một nền văn chương đích thực tác phẩm phải giúp nhân bản hóa tâm hồn người đọc: nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa cao cả vừa cao cả, vừa đau đớn vừa bay bổng: “Nó hát về tình yêu thương, bác ái, công lý, đưa con người lại gần nhau hơn”.
Sự nghiệp văn học của Nam Cao chủ yếu thể hiện trước Cách mạng tháng Tám. Quan điểm nghệ thuật của Nam Thảo được thể hiện qua hai truyện “Trăng sớm” và “Đại hoa”, giúp chúng ta hiểu Nam Thảo sâu sắc hơn. Qua đó, ta thấy được sự đóng góp về tư tưởng và nghệ thuật của Nam Cao đối với nền văn học Việt Nam. Từ đây, ta có thể hiểu vì sao Nam Thảo, một nhà văn chưa đến bốn mươi tuổi lại để lại cho đời mình một sự nghiệp văn chương đồ sộ như vậy.