Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

kien-thuc-van-ban-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-nguyen-du

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong bộ truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Qua cuộc đời và số phận khổ đau, bất hạnh của người phụ nữ, tác phẩm lên án xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm và quyền sống của con người. Có thể xem “Chuyện người con gái Nam Xương” là tiếng kêu uất ức, bất lực của người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến nức ta.

Truyện kể về cuộc đời cay nghiệt và số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết, thường gọi là Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà tận tình phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Những ngày vắng chồng, đứa con nhở thường hay quấy khóc. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó. Đứa bé tưởng thật liền nín ngay. Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc, đánh đập vợ tàn tệ rồi đuổi vợ đi. Quá phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng.

1. Phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Vũ Nương.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương” “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo. Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.

– Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:

Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Quả thực, nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực.

Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm.

Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.” .Qua lời nói dịu dàng,nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”.

Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay

Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả  thân phận và tấm lòng của mình để  thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ  khó được nương tựa nhà giàu…..cách biệt ba năm giữ  gìn một tiết…..”  Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ  trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.

Rồi những năm tháng sống ở  chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng  con. Vừa  gặp lại  Phan  lang, nghe  Lang  kể về  tình  cảnh gia  đình  nàng đã  ứa  nước mắt  xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để  nói lời đa tạ  tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ  nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.

Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo với mẹ  chồng, một người mẹ  hiền đầy tình yêu thương con:

Trong  ba  năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ  để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. Với mẹ  chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ  bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để  khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ”.

Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản. Với con thơ, nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ cái bóng của mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ, chỉ để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.

Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Từ đó, Chuyện người con gái Nam Xương là bài ca ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp vố có của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

2. Số phận oan nghiệt, bất hạnh và cái chết oan uất của Vũ Nương:

– Vũ nương là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do:

Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.

– Vũ Nương là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:

Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.

Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển. Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết. Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn. Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.

Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương. Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.

– Cái kết thúc truyện tưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch trong thân phận Vũ  Nương.

Vũ Nương chết nhưng linh hồn của nàng được Linh Phi cứu sống và cho về ở nơi cung nước. Nhờ Phan Lang về báo sự tình, Trương Sinh hiểu nỗi oan khuất của Vũ Nương và lập đàn trên bến sông giải oan cho nàng. Nỗi oan khuất của Vũ Nương cuối cùng cũng được hoá giải. Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.

Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”

Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.

Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.

– Những nguyên nhân dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương:

Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hết là lời nói ngây thơ của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng  ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hắt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ.

Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bản tính anh ta vốn vậy và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả mọt chế độ nam quyền trọng nam khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phải ngẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực là thượng đế có thể “nặn” ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên của Vũ Nương đã được làm sáng tỏ.

Ngoài ra, cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên. Chuyện người con gái Nam Xương là bản cáo trạng đanh thép những bất công, ngang trái trong xã hội phong kiến, là tiếng nói bất bình của nhân dân đối với chế độ phong kiến nam quyền khắc nghiệt, ích kỉ.

3. Ý nghĩa những chi tiết nghệ thuật trong truyện.

– Các chi tiết kỳ ảo:

Phan Lang nằm mộng thấy có người mách thả rùa xanh. Vũ Nương và Phan Lang được Linh Phi cứu sống. Phan Lang hồi sinh trở về trần gian. Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.

Chi tiết kỳ ảo có vài trò làm tăng sức hấp dẫn của thiên truyện bằng sự li kỳ và trí tượng tượng phong phú. Nhờ chi tiết kỳ ảo, những nét đẹp vốn có của Vũ Nương cũng được hoàn thiện hơn. Một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự. Chi tiết kỳ ảo thúc đẩy tình tiết truyện phát triển và tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan. Bằng các chi tiết kỳ ảo, tác phẩm khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

– Chi tiết cái bóng (của Vũ Nương trên tường):

Bé Đản hay quấy khóc vào mỗi đem. Để dỗ con nín, Vũ Nương thường chỉ lên cái bóng của mình ở trên tường và bảo rằng đó là cha Đản. Đản tưởng thật, không còn khóc nữa.

Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích. Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó. Cái bóng góp phần thể hiện tính cách nhân vật: Bé Đản ngây thơ, Trương Sinh hồ đồ, đa nghi, Vũ Nương yêu thương chồng con. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến với những luật lệ hà khắc tàn bạo và bất nhân, chà đạp lên nhân phẩm và cuộc đời của người phụ nữ, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.

Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

Tham Khảo Thêm:  Nghị luận: Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng….tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản (Lã Nguyên - Về tác gia và tác phẩm, NXBGD)

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *