
Ngôn ngữ độc đáo, đa âm trong tác phẩm Nam Cao
Nam Cao là một nhà văn ngôn từ sáng tạo. Giọng lạnh trong ấm, ngôn ngữ giản dị nhưng đa thanh, đa tầng, lôi cuốn. Đọc tác phẩm của Nam Thảo, người ta nhịn không được, thứ nhất là cốt truyện sai sót, thứ hai là ngôn từ dẫn dắt, cho đến mấy dòng cuối cùng.
Trong tác phẩm của Nam Cao, ngôn ngữ không chỉ là công cụ, phương tiện miêu tả mà còn là đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ hiện đại, đa thanh, đa âm. Không chỉ biết sử dụng các đại từ nhân xưng: nó, hắn, y, thị, thằng, anh còn có khả năng hóa thân, đóng giả mọi nhân vật, suy nghĩ và nói theo giọng điệu của họ.
Trong tác phẩm của Nam Thảo, ngôn ngữ người kể và ngôn ngữ nhân vật hài hòa, giữa ngôn ngữ người kể và ngôn ngữ nhân vật có sự hoán chuyển, giao tiếp. Trong Chí Phèo có một cuộc đối thoại ngầm giữa người kể với Chí Phèo, giữa nhân vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Nam Thảo xin một đoạn Bá kể chuyện bà Tú mà thật tâm tình. Đó là ngôn ngữ đối thoại nội tâm và là đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm của Nam Cao.
Sự tinh thông về ngôn ngữ của Nam Cao còn thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại đầy tính văn xuôi hàng ngày, ngoài việc thực hiện chức năng trần thuật, nó còn khắc họa nội tâm nhân vật (Chí Phèo, Thọ, Lão Hạc…).
Ngoài ra, Nam Thảo cũng có nhiều đóng góp trong việc miêu tả đối thoại nội tâm, tạo điều kiện đi sâu phân tích tâm lý nhân vật, khiến nhân vật bộc lộ bản thân, tạo ra những tranh luận ngầm. .
Giọng điệu là một yếu tố quan trọng đối với một nhà văn. Mỗi nhà văn cố gắng tạo ra tiếng nói riêng của mình, thường dựa trên thái độ nghệ thuật của chính anh ta. Nguyễn Công Hoan nổi bật với giọng điệu thản nhiên, châm biếm, châm biếm. Vũ Trọng Phụng thì mỉa mai, giễu cợt và đầy oán hận, Nguyên Hồng thì đầy yêu thương và xót xa, còn giọng điệu trong tác phẩm của Nam Cao là âm hưởng của nỗi sầu đau. Đó chính là giọng điệu chủ đạo cấu thành nên giọng điệu nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của ông, thể hiện sự đồng cảm, xót thương của nhà văn đối với những số phận nhỏ bé bất hạnh, những kiếp sống lêu lổng, lang thang không biết đi về đâu. (Dì Hảo, lão tặc, đám cưới, nước mắt, trường thọ…).
Cùng một chất giọng trầm buồn nhưng ở mỗi tác phẩm, Nam Cao lại thể hiện những sắc thái giọng điệu riêng. “Đám cưới” là một âm hưởng buồn, chua xót và đáng thương gợi lên nỗi day dứt bơ vơ của những mảnh đời héo úa, khắc khoải trong bóng tối, còn ở “Điêu tàn” là một âm điệu xót xa, than thở nói lên nỗi tủi nhục về kiếp sống và cái chết đáng thương của một người bạn. “Lão Húc” là một giọng điệu chua xót, buồn bã xen lẫn xót thương cho một mảnh đời bất hạnh, đáng thương như lão Huck.
Là một nhà văn có tấm lòng nhân ái, viết về những con người bé nhỏ và số phận đáng thương của họ trong xã hội cũ, nhưng điệu chủ đạo của Nam Thảo vẫn có âm sắc riêng, khác với các điệu rừng khác. Trong truyện của Thạch Lam, ta gặp một giọng văn nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, nhẹ nhàng thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng tất cả những điều bình dị trong cuộc sống. Nhưng ở Nancao, giọng điệu trầm buồn luôn ẩn chứa những suy tư triết lí sâu sắc về cuộc đời và con người. Anh không chỉ yêu thương những mảnh đời bé nhỏ dưới đáy xã hội mà còn luôn đau khổ, lo lắng, tích cực truy tìm nguyên nhân dẫn đến những bi kịch của con người.
Trong truyện Nam Thảo, ta thường bắt gặp một giọng điệu dường như đối lập hoàn toàn. Đó là một giọng nói khách quan, bên ngoài lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng bên trong lại đồng cảm và thông cảm. Dáng vẻ Nam Cao lạnh lùng, ánh mắt trầm tĩnh, sắc bén, tác giả luôn giữ khoảng cách, ngăn cách sự cảm thông với đối tượng được miêu tả. Sử dụng giọng điệu này, Nam Cao không tạo ra giọng điệu thống trị, lấn át. Ông có đóng góp lớn về giọng điệu trần thuật đa âm.
Trong một tác phẩm nào đó, mỗi đoạn, mỗi tứ vẫn có sự chuyển giọng, điều đó tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm của Nam Cao. Trong mỗi sáng tác của ông đều có sự hòa trộn các giọng điệu một cách nghệ thuật. Người đọc có thể nhận ra văn Cao qua giọng khách quan gay gắt, giọng thông cảm, giọng buồn, giọng triết luận…
Có thể nói, với tư duy sáng tạo, phong cách và thi pháp độc đáo, Nam Cao mang một tinh thần cách tân lớn, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại và hiện đại hóa. của nền văn học nước nhà.đóng góp quan trọng.