So sánh vẻ đẹp ngôn từ trong “Chữ Người tử tù” và “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân
“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu). Trong văn học hiện đại Việt Nam, Nguyễn Tuân là một trong những cây bút phức tạp nhất, nhưng cũng có phong cách rõ nét, ổn định nhất. Mọi phương diện trong tác phẩm của ông, nhất là ngôn ngữ, đều in đậm dấu ấn của một phong cách. Nói đến Nguyễn Tuân, hoàn toàn có thể nói đến một phong cách ngôn ngữ. Những nét thống nhất và khác biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm “Chữ người tử tù” (1939) và “Người lái đò sông Đà” (1960).
Ngôn ngữ là một trong những khía cạnh quan trọng để khám phá tác phẩm văn học. Là một phần của hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò như một vẻ đẹp, mà còn góp phần quan trọng trong việc tạo nên những tầng nghĩa lẩn khuất, sâu xa, thể hiện tốt nội dung tác phẩm, làm nổi bật phong cách nghệ thuật của tác giả, tạo nên nét đẹp thẩm mỹ cho văn học. Đây cũng là nét đặc trưng của loại hình nghệ thuật này. Cũng giống với những nguyên liệu để làm nên nghệ thuật, nhưng ngôn ngữ chỉ tạo nên những giá trị phi vật thể, đòi hỏi người đọc và cả người sáng tác phải vận dụng tối đa khả năng quan sát, trí liên tưởng tưởng tượng,… mới có thể tiếp cận với hình tượng nghệ thuật mà ngôn ngữ đã dày công nhào nặn. Sự huy động những khả năng ấy của con người, giúp cho mỗi chúng ta sống tinh tế hơn, hình tượng cũng sẽ sống muôn hình vạn trạng tùy theo quan niệm thẩm mỹ của mỗi người, tác phẩm nhờ vậy mà có thể cắm rễ sâu trong lòng người đọc.
“Ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư duy, cái vỏ chứa tư tưởng mà còn sản sinh ra tư tưởng”. Nghiên cứu phong cách của một nhà văn không thể né tránh ngôn ngữ văn chương. Và trong các thuộc tính của ngôn ngữ văn chương, tính cá thể là điều được nhấn mạnh. Đó là cơ sở để nói đến khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm văn học. Nó không hề mâu thuẫn với quan điểm của các nhà lý luận khi họ xem phong cách là biểu hiện của sự độc đáo, cá biệt của một nhà văn.
Như vậy, bên cạnh khái niệm phong cách nghệ thuật, còn tồn tại khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả. Xét trong tương quan, phong cách ngôn ngữ là sự biểu hiện rõ nét, sinh động của phong cách nghệ thuật. Vẻ đẹp của ngôn ngữ có thể nói cũng chính là vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật của những tác gia tài hoa. Với một con người như Nguyễn Tuân, thì ngôn ngữ là cách mà ông thể hiện sự tài hoa tài tử của chính mình.
1. Về mặt từ ngữ, dễ nhận thấy lớp từ Hán Việt đã được Nguyễn Tuân sử dụng với mật độ đặc biệt cao và với hiệu quả nghệ thuật rõ rệt.
Không chỉ những truyện tái hiện cuộc sống thời quá vãng, mà ngay cả ở những tùy viết về cuộc sống sau cách mạng, hoặc các tiểu luận, các chân dung văn học, Nguyễn Tuân vẫn dùng từ Hán Việt một cách rất phóng khoáng. Và một điều rất đáng lưu ý, mật độ từ ngữ Hán Việt trong văn bản thuộc các thể loại khác nhau của Nguyễn Tuân không chênh lệch nhau bao nhiêu. Cách dùng của ông cũng không giống ai. Ông ít động đến những từ ngữ Hán Việt thông dụng, ngược lại, thường chọn những từ lạ, hiếm gặp, chẳng hạn: loạn đả, chư hiền, lão kĩ, hạp ấm, trà nô, tái tòng, tuý lan, bạch tuấn, bản trang, trì hồ, hội diện, vũ sảnh, tửu lâu, ngân đơn, thư phái, tuý hương, hải vị, vưu vật, dị thú, ngân thị, hư linh học, nhất đẳng điền, thân khuê oán, tương tư thảo, tình cố giao, tứ phương bát diện, tứ diện thụ địch, bát điền đại thủ, vô sở bất chí, cảnh thổ, thiết lộ, câu dầm, đối ngạn, quần phong, mộ dạ, triêu dương, cự phú, thiên trường hận ca, âm phần, nhập nhĩ nhập nhỡn, cường kí, âm tưởng, song loan, vạn toàn, xa phí, địa bạ, độc đạo, hỗn thế hỗn trần, đỉnh chung, quan phu, sơn xuyên, chương trình đại công tác, độc kế, thổ trạch, trung hưng kinh tế, văn hoả, tửu phần, tửu đồ, trầm trệ, vận hoả tâm, nhật kỡ, lộng hiểm, tiểu chủ, triệt soạn, khất đài, quyện huyệt, liễm kết, hồng hoa, hồng hoàng, tư lường, vật tính, bầu hậu, tự điền… Cụ thể:
-
Trong “Chữ người tử tù”
Nghệ thuật viết văn xuôi trong “Chữ người tử tù” thật điêu luyện, ngôn ngữ trong sáng gần đạt tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ, đến nay chưa có cây bút nào có thể vượt qua. Để đạt được trình độ như trên, nhà văn đã sử dụng hệ thống từ ngữ và hình ảnh cổ điển một cách chính xác và hoàn hảo.
Tác giả có dụng ý rõ rệt khi dựng lại một khung cảnh xưa cũ và đã đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hàng trăm năm. Mở đầu là dòng chữ: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường. Tả cảnh vật thì có vọng canh, chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đèn, chiếc gong, chậu mực, bức châm,… Tả người thì có thầy bát, thằng thập, thủ xướng, ngục tốt… Tả việc thì có cho chữ, thay bút con, đề xong khoản lạc, lĩnh ý, bái lĩnh,…
Nhà văn đã mượn chữ nghĩa xưa mà khơi dậy cái không khí cổ kính trong khung cảnh của một quá khứ xa xôi. Chỉ cần mấy dòng, tác giả đã lột tả được thần thái, tính hồn của một thời đã qua, “phục chế” chính xác và sinh động ngôn ngữ, cử chỉ của những con người chỉ còn thấp thoáng trong màn sương mờ ảo của dĩ vãng. Thiếu sự “phục chế” này, chắc chắn tác phẩm Chữ người tử tù mất hẳn sự hấp dẫn đối với người đọc.
Truyện chỉ dùng một vài từ nhưng cũng đủ đưa người đọc trở về với một thời kì văn hoá xưa cũ, đắm mình vào không khí của một cửa ngục tiêu biểu cho thời phong kiến suy tàn, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau huỷ diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính Cái Đẹp của đức độ, tài ba. Những điều chứa chất sâu lắng bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc.
Người xưa nói trong văn có nhạc, có họa, điều đó thật đúng với “Chữ người tử tù”. Khi viết về con người của dĩ vãng xa xăm, Nguyễn Tuân thường tạo cho câu văn nhịp điệu đĩnh đạc, thong thả, từ tốn, tưởng chừng nhà văn cố diễn đạt cầu kì nhưng suy nghĩ kĩ mới thấy nhịp điệu và kết cấu câu văn đã góp phần gợi không khí cho truyện, tạo nên sự cộng hưởng hài hoà, giúp người đọc hình dung ra phần nào cuộc sống chậm rãi, thậm chí gần như tù đọng của một thời đã qua: “Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”… “Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đây giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.”
- Trong “Người lái đò sông Đà”
Với thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng tài hoa của mình trong việc liên kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tâm thế của con người sau Cách Mạng ấy, sự đối lập dần được thay thế, nhường chỗ cho cho sự con người ôn hòa, dễ chịu hơn. Để làm được điều ấy, sự góp mặt của những yếu tố Hán Việt là điều không thể thiếu.
Qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi đập chất cổ điển của nhà tùy bút.
Việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong các tác phẩm thuộc các thể loại của Nguyễn Tuân trước hết xuất phát từ đỏi hỏi của đối tượng được miêu tả. Do viết về đề tài “vang bóng” các nhân vật chính là nho sĩ nên ngôn ngữ Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù” rất cổ kính, bác học. Viết về cuộc sống của những con người tài tử, tài hoa một thời vang bóng, về luật hình phong kiến, về thú chơi chữ, thả thơ, hát ả đào,… thì lớp từ Hán Việt dĩ nhiên là đắc địa.
Bên cạnh đó, từ ngữ Hán Việt còn góp phần tạo ra âm hưởng đặc biệt cho lời văn Nguyễn Tuân. Ấy là cái âm hưởng vừa hiện đại, vừa đĩnh đạc cổ kính, đọc lên đã cảm thấy không lẫn với giọng điệu của bất cứ nhà văn nào. Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, tạo âm vang ngàn xưa vọng lại – âm vang của một thời xa vắng. Trong “Người lái đò sông Đà”, người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ, sáng tạo, mang bản sắc riêng: “lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ…”
Nhà văn thực sự là một ông lái tài hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co duỗi nhịp nhàng. Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đến với cái yên ả của dòng sông đà nơi hạ lưu: “Dòng sông quãng này lững lờ như thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển dòng trên”.
Đọc “Chữ người tử tù” ta không thể nào quên những câu văn đầy chất thơ của ông: “Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm, tinh tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giời không định”. Cái nhịp điệu buồn buồn, kéo dài văng vẳng một nỗi tiếc nuối như thấm vào câu văn. Chính câu văn giàu nhịp điệu và âm vang cho nên Vũ Ngọc Phan có cảm tưởng “Đọc lên nó ngân sâu như những tiếng đàn trầm”.
2. Ở Nguyễn Tuân, ta còn bắt gặp hai thao tác ngỡ mâu thuẫn mà thực ra là thống nhất: sử dụng từ ngữ chuyên biệt, chính xác song song với hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa.
Thao tác thứ nhất, Nguyễn Tuân lựa chọn những từ ngữ thật đích đáng để gọi sự vật đúng tên của nó, đặc tả sự vật đúng tính chất của nó.
- Trong “Chữ người tử tù”:
Ông gọi tâm hồn và tấm lòng của quản tù “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Có thể nói, bậc thầy ngôn từ – Nguyễn Tuân đã có những câu văn đặc sắc, giàu tính tạo hình khi ông lột tả chiếc gông cùm của sáu tên tử tù: “Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh”
Để đặc tả không gian đỏ rực và màn khói trắng, Nguyễn Tuân đã tạc lên bức điêu khắc biểu tượng, hội tụ cái đẹp: “Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực.” Cái uyên bác của Nguyễn Tuân đã đem lại cho trang văn tính tạo hình và trở nên phong phú và chính xác hơn.
- Trong “Người lái đò sông Đà”:
Thoạt tiên là, tác giả gọi những “hút nước” ở sông Đà là những “cái giếng sâu”, gọi “thiên nhiên Tây Bắc” là “thứ kẻ thù số một”, gọi “chiến trường sông Đà” là “quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà”, thay cho việc dùng từ “trận đá” bằng từ “thạch trận”, tiếp đó là sử dụng tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”…
Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Thoạt tiên là tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”…
Song hành với âm thanh là hình ảnh. Bằng vốn hiểu biết phong phú về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo và óc quan sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt là khi “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm! Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến người đọc cũng “thấy lạnh” như đang ngồi chung khoang đò qua quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi, từ ngữ của Nguyễn Tuân cũng góc cạnh, sắc nét như những đường chạm trổ của người thợ tài hoa.
Thao tác thứ hai, Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm những hình thức biểu đạt rất khác thường. Ông rất công phu trong việc ghép từ, hoặc thay thế một từ thông dụng bằng từ ngữ lạ hoắc, gây bỡ ngỡ cho người đọc.
- Trong “Chữ người tử tù”
Từ ngữ, câu văn được lạ hóa: “Những đoạn không bóng thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh”; “mưa rệp”; “biệt nhỡn”; “tính ông vốn khoảnh”; “Ông Trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”;…
- Trong “Người lái đò sông Đà”
Những từ ngữ được lạ hoá như: “thanh viện” (hỗ trợ bằng âm thanh), “thanh la, não bạt” (nhạc cụ bộ gõ bằng đồng tạo âm thanh mới lạ), “đánh hồi lùng” (đánh dồn dập), “đòn âm” (đòn ngầm), “trùng vi” (vòng vây nhiều lớp), “tế mạnh” (phi mạnh, lao mạnh)…
Hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa đã được Nguyễn Tuân đẩy đến mức cao hơn khi trước một đối tượng cần miêu tả, ông dùng đồng thời nhiều cách định danh, nhằm nói cho kiệt cùng mọi sự cảm nhận của mình.
3. Nguyễn Tuân thuộc số những cây bút đặc biệt chú trọng hình thức câu văn.
Điều này thể hiện rõ ở sự gia công của ông về cách cấu tạo câu cũng như về các biện pháp tu từ trong câu. Nếu cấu tạo câu thời kì trước Cách Mạng trong văn ông phù hợp với giọng điệu cổ kính trang nghiêm, thì với thời kì sau Cách Mạng câu văn cầu kì, nhiều khi dài hơi, trau chuốt hơn phù hợp với cá tính phô bày tri thức của mình và tài dùng chữ.
Câu văn của Nguyễn Tuân thường có xu hướng phức hóa. Bất cứ thành phần nào trong câu văn của ông cũng đều có thể được phát triển một cách dễ dàng. Ông mang trong mình cái giọng kể khoan thai trong những thiên truyện, giọng giãi bày miên man trong những thiên tùy bút, giọng phân tích, phẩm bình tỉ mỉ kiểu “chẻ sợi tóc làm tư” trong các bài viết về văn học nghệ thuật.
Sự chau chuốt trong câu văn Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện ở bình diện cấu trúc mà còn ở mặt tu từ. Nói cách khác, yêu cầu về tu từ đã được đáp ứng bằng những đặc điểm của cấu trúc. Những biện pháp và phương tiện được nhà văn sử dụng thường khiến cho câu văn phải dãn ra, trổ nhiều cành nhánh rậm rạp, với những tầng bậc khác nhau và đạt hiệu quả thẩm mĩ rõ rệt. Trong các phép tu từ, thì sóng đôi cú pháp, điệp, giải nghĩa, tách câu là những biện pháp được Nguyễn Tuân ưa dùng hơn cả. Có những kiểu tu từ dễ kéo câu văn trở về kiểu du dương biền ngẫu cũ kĩ một thời, (ví như phép sóng đôi cú pháp), nhưng Nguyễn Tuân vẫn sử dụng một cách thoải mái, và bằng sự cao tay của mình, ông viết nên những câu văn nhịp nhàng cân đối mà vẫn rất hiện đại.
- Trong “Chữ người tủ tù”:
“Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều”; câu văn “trổ nhánh rậm rạp”: “Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân gián”; “Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”…
- Trong “Người lái đò sông Đà”:
“Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu giọng gằn mà chế nhạo”; “Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.” . Có những phép tu từ tưởng chỉ phù hợp với kiểu câu văn giải thích đậm tính duy lí của ngữ pháp châu Âu (ví như phép giải ngữ), vậy mà, qua bàn tay Nguyễn Tuân, chúng bỗng phát huy hiệu quả bất ngờ trong việc tạo nên âm giọng điệu đặc biệt cho lời văn: “Tôi sợ hãi khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”.
Câu văn trổ nhánh rậm rạp ở đây có thể kể đến: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá cô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi sợ xuýt bắt người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”; hay: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”
Tóm lại, cả về mặt cấu trúc và phương diện tu từ cú pháp, Nguyễn Tuân đã thể hiện nhiều khổ công tìm tòi, sáng tạo. Câu văn của ông vừa cho thấy dấu vết của một lộ trình: ấy là lộ trình hiện đại hóa của câu văn quốc ngữ, vừa phản ánh khá rõ nét những đặc điểm phong cách ngôn ngữ của một cá nhân.
4. Nói đến những tìm tòi, sáng tạo của Nguyễn Tuân về ngôn ngữ, không thể không đề cập nghệ thuật so sánh đặc sắc của ông.
Về lượng, câu văn so sánh trong các văn bản thuộc mọi thể loại của Nguyễn Tuân có tỉ lệ cao một cách khác thường so với tác phẩm của các tác giả trong cùng bối cảnh văn học. Nhưng điều đáng nói hơn là hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong lời văn Nguyễn Tuân. Hiệu quả này có được là nhờ những tìm tòi không mệt mỏi của nhà văn về cấu trúc so sánh, về từ chỉ quan hệ so sánh, và đặc biệt là hình ảnh dùng để so sánh. Săn tìm những hình ảnh dị thường, ít ai nghĩ tới, làm cho mỗi câu văn so sánh thực sự là một kết quả khám phá, thể hiện một cái nhìn khác biệt về đối tượng, đó là những thao tác thường thấy ở Nguyễn Tuân. Thao tác này được nhà văn sử dụng rộng rãi ở mọi thể loại, mọi giai đoạn sáng tác. Vì vậy, thật khó mà thấy được sự khác biệt nghệ thuật so sánh của câu văn trong truyện, trong tùy bút hay trong phê bình, chân dung văn học của ông.
- Trong “Chữ người tử tù”:
Khuôn mặt vô tư lự của một viên quan coi ngục được Nguyễn Tuân ví với “mặt nước ao xuân bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”, còn tính cách dịu dàng của con người ấy thì “như một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn độn, xô bồ”; “ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng…vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài”; “Sáu người né mình tiến vào như một bọn thợ nề thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai”; “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định”;
- Trong “Người lái đò sông Đà”:
Có thể nói, nghệ thuật so sánh trong “Người lái đò sông Đà” không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đối chiếu sự vật này với sự vật khác mà còn mang cả dấu ấn phong cách riêng của Nguyễn Tuân, hàm chứa những cái nhìn độc đáo, tài hoa, tinh tế: ông đã diễn tả đoạn sông bin chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”; “nước ở đây thở và kêu như cái cống bị sặc”; “cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”; “mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập”;…
Sự liên tưởng đặc sắc nhất trong “Người lái đò sông Đà” nằm ở chính những trận chiếc trên sông Đà. Với thạch trận mà sông đà hung bạo giăng ra để chặn đánh người lái đò, đó là: “hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại… Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào.”
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con thủy quái sông Đà không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,… vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương. Sự liên tương được tiếp nối sang thứ tính cách thứ hai của sông Đà: trữ tình. Nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”…
Cái nhìn lãng mạn và lối so sánh, liên tưởng đầy sở trường đó vẫn vẹn nguyên khi ông phát hiện con sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. Nét phong cách này thể hiện rõ trong “Chữ người tử tù” và “Người lái đò sông Đà”. Ngôn ngữ trong văn ông đa dạng, phong phú, mới mẻ, in đậm dấu ấn cá tính riêng.Nguyễn Tuân đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để “quyết một phen thi tài với Tạo hóa”.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách Mạng tháng Tám. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tâst nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi râst Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp.
Dù viết về vấn đề gì, sử dụng thể loại nào, điều khiến Nguyễn Tuân phải tận tâm, tận lực là làm sao khai thác cao nhất khả năng biểu đạt của ngôn từ, để tiếng Việt có thể phô hết mọi sắc màu của nó. Dường như ranh giới giữa các thể loại là điều mà ông không mấy bận tâm. Như nhiều người đã chỉ ra, với kiểu hành ngôn này, truyện của Nguyễn Tuân rất đậm chất tùy bút, ngược lại, tùy bút cũng rất giàu tính truyện; văn xuôi mà đọc lên cứ nghe như âm điệu của thơ; phê bình, tiểu luận và chân dung văn học hấp dẫn người đọc bởi lối diễn đạt đầy tính nghệ thuật…
Có thể khẳng định con đường Nguyễn Tuân đã đi cũng như cách xử lí ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là “khuôn vàng thước ngọc”. Đó cũng chỉ là một trong muôn nẻo đường hành ngôn nghệ thuật. Đã từng tồn tại nhiều vẻ đẹp ngôn ngữ khác biệt, thậm chí đối lập với những sắc thái thẩm mĩ trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Có như thế, văn chương mới bung nở nhiều phong cách. Nếu cần phải minh hoạ cho bản chất sáng tạo của văn học thì phải kể đến Nguyễn Tuân – người với những trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra không chỉ một con đường, một lối đi riêng mà phải nói là một “đại lộ” riêng trên các ngả khai phá của văn học Việt Nam. Trên “đại lộ” ấy ta bắt gặp nét quen thuộc và cả những điều mới mẻ – cái làm nên hồn cốt Nguyễn Tuân.