Tổng hợp đầy đủ và chi tiết kiến thức văn bản Ngữ văn 12.
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Hồ Chí Minh)
I. Tìm hiểu chung.
– Bản “Tuyên ngôn Độc lập” được viết vào những ngày cuối tháng 8/ 1945. Sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi ở Hà Nội (19/8/1945), Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đọc Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào, khai sinh ra nước Việt nam mới.
– Hồ Chí Minh viết và đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khi đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta đồng thời với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc tiến vào phía bắc, quân đội Anh tiến vào phía nam. Thực dân Pháp theo chân Đồng minh, tuyên bố: Đông Dương là đất “bảo hộ” của Pháp, bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương phải thuộc quyền của Pháp.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Nêu nguyên lí chung về quyền tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người và của các dân tộc.
– Trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mĩ và của Pháp để làm cơ sở pháp lí cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
+ Tuyên ngôn độc lập của Mĩ năm 1776: “Tất cả mọi người … quyền mưu cầu hạnh phúc”
+ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do … bình đẳng về quyền lợi.”
* Ý nghĩa:
+ Hồ Chí Minh tôn trọng và sử dụng hai bản tuyên ngôn có giá trị, được thế giới công nhận làm cơ sở pháp lí không thể chối cãi.
+ Dùng phương pháp “gậy ông đập lưng ông”: lấy tuyên ngôn của Pháp để phản bác lại chúng, ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng.
+ Đặt ngang hàng cuộc cách mạng, giá trị bản tuyên ngôn của nước ta với hai cường quốc Mĩ và Pháp, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
+ Lập luận chặt chẽ, sáng tạo: từ quyền con người (tự do, bình dẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc), “suy rộng ra” là quyền tự do bình đẳng của mọi dân tộc trên thế giới.
→ Đây chính là cơ sở pháp lí của Tuyên ngôn độc lập. Thực dân Pháp đã phản bội và chà đạp lên chính nguyên lí mà tổ tiên họ xây dựng.
2. Tố cáo tội ác của thực dân Pháp:
+ Vạch trần bản chất công cuộc “khai hóa” của thực dân Pháp: thực chất chúng thi hành nhiều chính sách dã man về chính trị, văn hóa – xã hội – giáo dục và kinh tế.
+ Vạch trần bản chất xảo quyệt, tàn bạo, man rợ; những âm mưu thâm độc, chính sách tàn bạo của thực dân Pháp bằng những lí lẽ và sự thật lịch sử không thể chối cãi. Đó là những tội ác về chính trị, kinh tế, văn hóa… Chúng còn hèn nhát bán nước ta cho Nhật, đàn áp Việt minh và những người yêu nước.
+ Nghệ thuật: Điệp cấu trúc “chúng + hành động….”: nhấn mạnh tội ác của Pháp.
→ Đây chính là cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn độc lập. Thực dân Pháp đã đi ngược lại những gì chúng tuyên bố. Chúng không còn tư cách để nói về tự do, bác ái, văn minh, khai hóa,…
3. Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
– Nhân dân ta đã chống ách nô lệ hơn 80 năm, đứng về phía Đồng minh chống phát xít, kêu gọi Pháp chống Nhật, lấy lại nước từ tay Nhật
– Kết quả: cùng lúc phá tan 3 xiềng xích đang trói buộc dân tộc ta (Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị), thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
→ Khẳng định thực tế lịch sử: nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Lời tuyên bố độc lập và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc.
– Dùng từ ngữ có ý nghĩa phủ định để tuyên bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước đã kí kết, mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam.
– Dựa vào điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
– Tuyên bố với thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do… ”. Thể hiện quyết tâm đoàn kết giữ vững chủ quyền, nên độc lập, tự do của dân tộc.
– Lời văn đanh thép, rõ ràng như một lời thề cũng như một lời khích lệ tinh thần yêu nước nhân dân cả nước.
→ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của Việt Nam; tuyên bố quyết tâm của toàn dân tộc bảo vệ quyền độc lập, tự do đó.
5. Giá trị lịch sử và giá trị văn học:
– “Tuyên ngôn Độc lập” là một văn kiện lịch sử vô giá tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền tự do, độc lập của dân tộc Biệt Nam và khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do ấy.
– Kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do, độc lập của Hồ Chí Minh và nhân dân ta.
– Mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do.
– Là áng văn chính luận mẫu mực.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
– “Tuyên ngôn Độc lập” dựng nên một hàng rào vững chắc cho những lập luận, lí lẽ của mình bằng việc tạo ra cơ sở pháp lí cho nền độc lập của Việt Nam nói riêng và các nước, các dân tộc khác nói chung
– Tố cáo tội ác của thực dân Pháp trên mảnh đất của dân tộc Việt Nam, hoàn toàn đối lập với giọng điệu xảo trá mà thực dân Pháp đã rao giảng với thế giới. Đồng thời cũng khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
– Tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.
2. Nghệ thuật:
– Tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh
– Lập luận: chặt chẽ, sắc bén, thống nhất quan điểm chính trị từ đầu đến cuối bản tuyên ngôn độc lập.
– Lí lẽ: xuất phát từ tình yêu công lí, thái độ tôn trọng sự thật, dựa vào lẽ phải đã được nhân dân thế giới công nhận và từ các cuộc đấu tranh vì chính nghĩa trong lịch sử nhân loại.
– Dẫn chứng: xác thực, với những bằng chứng đanh thép, số liệu chính xác được lấy từ sự thực lịch sử
– Ngôn ngữ: hùng hồn, chan chứa tình cảm, cách xưng hô của Bác tạo được sự gần gũi với nhân dân cả nước trong giờ phút thiêng liêng của dân tộc.
– Giọng điệu nghị luận rất đanh thép, cứng rắn và giàu tính luận chiến.
– Hình ảnh được sử dụng rất đa dạng, giàu sức gợi hình, giàu cảm xúc.
→ Tuyên ngon Độc lập xứng đáng là mọt bản thiên cổ hùng văn của dân tộc.
TÂY TIẾN
(Quang Dũng)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Quang Dũng (1921 – 1988), quê Hà Nội. Ông là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
– Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc…
– Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ, 1986), Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988)
– Phong cách sáng tác: hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến của mình
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, hoạt động ở biên giới Việt – Lào với nhiệm vụ phối hợp với quân đội cách mạng Lào để bảo vệ biên giới, tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là trí thức, thanh niên Hà Nội lại phải hoạt động trên một địa bàn rộng lớn, hiểm trở với muôn ngàn khó khăn, thử thách; điều kiện chiến đấu khắc nghiệt song những người lính trẻ đã vượt qua những thử thách ấy. Cuối năm 1948, Quang Dũng được chuyển sang đơn vị khác. Tại Phù Lưu Chanh (thuộc tỉnh Hà Đông cũ), nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết nên bài thơ này.
– Bố cục (gồm 4 phần):
+ Phần 1 (14 câu đầu): Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến.
+ Phần 2 (8 câu tiếp theo): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
+ Phần 3 (8 câu tiếp theo): Chân dung người lính Tây Tiến.
+ Phần 4 (còn lại): Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
– Nội dung: Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến (14 câu đầu):
* Nối nhớ Tây Tiến:
– Cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ. Cảm xúc này chi phối toàn bộ hình ảnh trong bài thơ.
– Nỗi nhớ bùng lên thành tiếng gọi: “Tây Tiến ơi…”.
– “Nhớ chơi vơi”: nỗi nhớ dai dẳng, triền miên,….
– Nỗi nhớ chất chồng, không thể định hình ấy lan tỏa trong không gian, bao phủ mọi miền kí ức: từ khung cảnh miền Tây tới những người đồng đội Tây Tiến một thuở.
– Những địa danh của miền Tây tổ quốc xuất hiện nhiều lần: Núi rừng in dấu chân người lính Tây Tiến, mỗi tên đất gắn với những kỉ niệm về đất và người Tây Bắc, về đoàn quân Tây Tiến.
– Hình ảnh “sương lấp”, “mây”, “mưa”, “thác”, “cọp”... gợi nên sự gian nan, vất cả.
* Khung cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ:
– Vùng đất xa xôi, hoang vắng , hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt, bí hiểm:
+ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”: câu thơ toàn vần trắc à dốc nối tiếp nhau, độ cao của dốc núi.
+ “Heo hút..ngửi trời”: núi cao, vực sâu (từ láy, biện pháp đối lập, cách nói “súng ngửi trời”).
+ “Ngàn thước..xuống”: diễn tả độ dốc, khó khăn của những chặng đường hành quân (Chú ý : câu thơ gãy gập, nghệ thuật đối lập, lặp,…).
+ “Chiều chiều…cọp trêu người” : tính chất dữ dội, hoang vu, bí hiểm; sự nguy hiểm thường trực.
→ Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở, khắc nghiệt.
* Tây Bắc thơ mộng, trữ tình:
– “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”; “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” → câu thơ toàn thanh bằng; hình ảnh đẹp, đa nghĩa từ ngữ chính xác, gợi cảm (hoa về trong đêm hơi).
– “Tây Tiến cơm lên khói”; “ mùa em thơm nếp xôi”: Cảnh thiên nhiên miền Tây lãng mạn, bình dị, mang lại hương vị ngọt ngào, nồng ấm.
→ Bằng bút pháp hiện thực mạnh bạo, khỏe khoắn, miêu tả xen kẽ hài hòa… đoạn thơ phác họa bức tranh nói rừng vừa hiểm trở, hoang vu, dữ dội vừa lãng mạn, bình dị.
2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng (8 câu tiếp theo).
* Cảnh đêm liên hoan:
– Cảnh rực rỡ, lung linh,ấm áp, huyền ảo, rực rỡ; không khí sống động, vui tươi (Chú ý: bừng lên,hội đuốc hoa, … )
– Con người (Kìa em xiêm áo…e ấp): đẹp lộng lẫy, say sưa trong âm nhạc và vũ điệu xứ lạ à Người lính ngạc nhiên, bất ngờ trước không khí và vẻ đẹp của những cô gái vùng cao.
→ Đêm liên hoan ấm áp tình quân dân; tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, hào hoa của người lính.
* Cảnh sông nước miền Tây :
– Cảnh vật: thơ mộng, huyền ảo, trữ tình, hoang sơ, hung bạo ( buổi chiều trên sông nước,chiều sương, hồn lau, hoa đong đưa duyên dáng, trữ tình trên cái nền dữ dội, hung dữ của dòng nước lũ) → Thiên nhiên đẹp, huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng.
– Con người Tây Tiến: Dáng người trên độc mộc → vẻ đẹp vững chãi, can trường, rắn rỏi giữa thiên nhiên.
→ Bằng bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.
3. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến (8 câu tiếp theo):
– Được khắc họa trên nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ , dữ dội và trữ tình.
– Hình ảnh: “sương lấp đoàn quân mỏi”, “dốc lên khúc khuỷu… thăm thẳm”: mệt mỏi, nhiều thách thức vì đường xa, dốc cao vực sâu, quanh co khúc khuỷu.
– Hình ảnh người lính Tây Tiến: “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Hai cách hiểu (mệt mỏi thiếp đi và cái chết trên đường hành quân); cách nói giảm nói tránh: xem thường khó khăn, thử thách và coi cái chết nhẹ nhàng, làm giảm nhẹ đau thương.
– “Súng ngửi trời”: cách nói trẻ trung, tinh nghịch, hồn nhiên của người lính: xem thường khó khăn,gian khổ, thách thức.
→ Người lính Tây Tiến: ngang tàng, trẻ trung, lạc quan, hóm hỉnh.
– “Pha Luông …xa khơi; Mường Lát …đêm hơi”: Cảm nhận vẻ đẹp mềm mại, trữ tình của cảnh vật; cảm được vẻ đẹp tưởng như bị chìm đi sau vẻ đẹp chủ đạo là hung vĩ, dữ dội → tâm hồn lãng mạn, tinh tế, tài hoa.
3. Bức chân dung lẫm liệt của người lính Tây Tiến (Khổ thơ cuối).
– Ngoại hình: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng gửi mộng” → Hình ảnh người lính Tây tiến được miêu tả chân thực, vừa thể hiện hiện thực khốc liệt, gian khổ của cuộc chiến tranh vừa thể hiện niềm tự hào về dáng vẻ kì dị nhưng gân guốc, độc đáo của người lính.
– Tư thế: Xanh xao, tiều tụy vì bệnh tật và gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn toát lên vẻ kiêu dung, mạnh mẽ, oai phong.
+ Ý chí, tinh thần: Quyết tâm chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, hoàn thành nhiệm vụ, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
+ Tâm hồn: mơ về quê hương và những người thiếu nữ Hà thành: lãng mạn, đa tình, trẻ trung, hào hoa.
– Sự hi sinh bi tráng của người lính Tây Tiến:
+ Khắc họa đậm nét để hoàn chỉnh bức chân dung: thể hiện tinh thần không né tránh hiện thực đau thương.
+ Họ là những chàng trai Hà Nội, nồng nàn yêu nước, tự nguyện dấn thân vào cuộc chiến khốc liệt của dân tộc không tính toán, không suy bì hơn thiệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”à Cách nói chủ động: Thái độ tự nguyện, thanh thản. Lí tưởng cao đẹp đã lấn át cái bi thương
– Hình ảnh:
+ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: người lính TT chết vì kiệt sức, bệnh tật hơn là chết trận. Loạt từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính trang nghiêm biến những nấm mồ hoang lạnh nơi núi rừng thành những mộ chí tôn nghiêm vĩnh hằng.
+ “Áo bào thay chiếu”: Hình ảnh mang đậm cảm hứng lãng mạn.
+ Cách nói giảm : “anh về đất” ca ngợi sự hi sinh và bất tử của những người lính: về với đất mẹ, hoá thân vào sông núi để sống mãi với nước non này.
+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: thiên nhiên nghiêng mình đưa tiễn các anh, khúc độc hành bi tráng mãi khắc tên những nấm mồ oanh liệt.
→ Hình ảnh thơ đầy xúc động, diễn tả thực đến mức trần trụi cái khắc nghiệt của thực tế chiến đấu lúc bấy giờ. Tả thực, không thêm thắt, không giấu che hiện thực khắc nghiệt ( dù cách nói có ước lệ ). Khổ thơ đong đầy cảm xúc bi thương nhưng lại toát lên vẻ đẹp hào hùng, ngợi ca .
4. Lời thề thiêng liêng của người lính Tây Tiến.
– Tinh thần “một đi không trở lại” của những người lính Tây Tiến: quyết tâm hi sinh vì nghĩa lớn; ra đi không hẹn ngày đoàn tụ.
– Sự gắn bó máu thịt với Tây Tiến: Hồn về … chẳng về xuôi.
→ Lời thề thiêng liêng đậm chất bi tráng: xác định là đau thương nhưng vẫn dấn thân bằng tâm hồn lãng man.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
+ Nỗi nhớ của Quang Dũng về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
+ Bức chân dung bi tráng, hào hùng và hào hoa của người lính Tây Tiến.
→ Hình ảnh người lính Tây Tiến bi tráng, lãng mạn trên nền thiên nhiên miền Tây vừa dữ dội, hiểm nguy, vừa thơ mộng, trữ tình
2. Nghệ thuật:
+ Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
+ Ngôn từ đặc sắc: từ láy, từ tượng hình, từ chỉ địa danh, từ Hán Việt…
+ Chất nhạc và chất họa kết hợp hài hòa.
VIỆT BẮC (trích)
(Tố Hữu)
I. Tìm hiểu chung.
– Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. Hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lãnh đạo cuộc kháng chiến, tháng 10/1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
– Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm được chia làm hai phần: phần đầu tái hiện giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người; phần sau nói về sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và ca ngợi công ơn của Đảng, của Bác đối với dân tộc.
– Đoạn trích là phần đầu của bài thơ.
– Bố cục (2 phần)
+ Phần 1 (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi
+ Phần 2 (còn lại): Lời của người ra đi với nỗi nhớ Việt Bắc
– Nội dung: “Việt Bắc” là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc… Việt Bắc cũng là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cất lên âm hưởng anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi (20 câu đầu):
+ Lên tiếng trước thể hiện sự nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay và với nghĩa tình đằm thắm thiết tha.
+ Nhắc lại thời gian gắn bó: 15 năm gắn với lịch sử cách mạng, đủ dài cho lòng người nhận rõ lòng người và gắn bó thiết tha.
+ Nhìn hiện tại nhớ dĩ vãng, nhìn hiện vật nhớ người đã xa. Đó là quy luật của tình cảm. Lời nhắc nhở khởi phát từ mối tình sâu nặng.
→ Tâm trạng vấn vương, lưu luyến.
2. Lời của người ra đi với nỗi nhớ Việt Bắc (còn lại):
– Lắng nghe tha thiết. Tâm trạng xúc động bâng khuâng bồn chồn → Chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu thể hiện như tình yêu đôi lứa.
– Nỗi lưu luyến, bịn rịn không muốn rời.
– Hoài niệm thiết tha về cảnh vật, con người và cuộc kháng chiến. Trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, thiên nhiên, con người Việt Bắc với cuộc k/c gian khổ mà hào hùng đã hiện lên thật rõ nét.
* Thiên nhiên Việt Bắc:
– Thiên nhiên dữ dội: Mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù, nắng cháy lưng…
– Thiên nhiên thơ mộng: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương…
– Thiên nhiên tươi mát, mĩ lệ: bức tranh tứ bình hiện ra với các gam màu tươi tắn rực rỡ:
+ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi (đông)
+ Mơ nở trắng rừng (xuân)
+ Ve kêu rừng phách đổ vàng (hạ)
+ Rừng thu trăng rọi hòa bình (thu)
→ Thiên nhiên với các thời điểm: bốn mùa, với không gian: sương sớm, nắng chiều, trăng khuya… ùa về trong nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ khó tả, sâu đậm thể hiện sự yêu quí và gắn bó với cảnh vật thiên nhiên việt bắc.
– Thiên nhiên anh hùng: Thiên nhiên cùng tham gia vào cuộc kháng chiến: “Núi giăng thành lũy sắt dày/Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
* Con người Việt Bắc:
– Vất vả, gian lao nhưng sâu nặng nghĩa tình:
+ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”.
+ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
+ Đẹp trong lao động, hòa mình vào thiên nhiên: “Ta về mình có nhớ ta…ân tình thủy chung”.
→ Nhớ người Việt Bắc trong nghèo khó, vất vả mà vẫn tình nghĩa, thủy chung, gắn bó với cách mạng. Cứ mỗi câu lục tả cảnh mỗi mùa, gắn với một loài hoa rực rỡ sắc màu thì lại đan xen một câu bát tả người với vẻ đẹp cần cù, siêng năng, lạc quan, giao hòa với thiên nhiên và ân tình thuỷ chung.
* Việt Bắc đánh giặc và Việt Bắc anh hùng:
– Gian khổ nhưng lạc quan, hào hùng:
+ Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
+ Khí thế hào hùng, khẩn trương, sức mạnh vô địch :Những đường Việt Bắc… đêm đêm rầm rập như là đất rung, điệp điệp trùng trùng, dân công đỏ đuốc từng đoàn, đèn pha bật sáng …
+ Khí thế chiến thắng:thể hiện qua tin vui liên tiếp bay về:Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…
→ Bút pháp anh hùng ca: giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng; từ láy; so sánh; hình ảnh đẹp hào hùng.
– Bên hình ảnh nhân dân anh hùng, hình ảnh Trung ương, chính phủ và Bác Hồ cũng lung linh tỏa sáng:
+ “Nắng trưa rực rỡ sao vàng/ Trung ương chính phủ luận bàn việc công” chính là hình ảnh đầu não của cuộc kháng chiến, là trái tim của cả nước, đề ra những nhiệm vụ những phong trào cấp thiết.
+ Có sự đồng nhất giữa Bác Hồ với Việt Bác, với Cách mạng (sáng soi, nuôi chí bền, dựng nên…)
→ Hình ảnh lớn lao, kì vĩ tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng.
3. Đánh giá:
– Đoạn thơ ngập tràn cảm xúc, chất hiện thực và chất lãng mạn đan xen vào nhau, tạo nên vẻ đẹp vừa đằm thắm, vừa hoành tráng. Mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
– Việt Bắc có thể coi như một bản tổng kết lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Bài thơ đã tái hiện chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, cùng với đó là cuộc kháng chiến anh hùng, vĩ đại của dân tộc ta. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính trị, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt, hình ảnh phong phú, giàu sức biểu cảm đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
– Đoạn trích là khúc hồi tưởng ân tình về Việt Bắc trong những năm cách mạng và kháng chiến gian khổ; bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến; bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.
2. Nghệ thuật:
– Bài thơ đậm đà tính dân tộc: thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp, sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng mình – ta.
– Ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thể lục bát, kết cấu đối đáp quen thuộc… đậm sắc thái dân gian.
– Ngôn ngữ và hình ảnh đậm sắc thái dân gian.
ĐẤT NƯỚC
(trích trường ca “Mặt đường khát vọng”- Nguyễn Khoa Điềm)
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
– Nguyễn Khoa Điềm (1943) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước.
– Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén. Giọng thơ trữ tình chính luận.
2. Đoạn trích :
– Hoàn cảnh sáng tác: Hoàn thành ở chiến khu Trị -Thiên 1971 .
– Vị trí: Trích chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”.
– Bố cục (gồm hai phần):
+ Phần 1: Đất nước được cảm nhận từ nhiều phương diện: cội nguồn, lịch sử, địa lí, văn hoá …
+ Phần 2: Tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân Dân”.
– Nội dung: Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa – lịch sử, địa lí – thời gian đến không gian của đất nước. Đoạn trích thể hiện tư tưởng cốt lõi: Đất nước của nhân dân. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Cảm nhận của về Đất Nước.
Đất nước được cảm nhận từ chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian và chiều sâu của lịch sử văn hóa dân tộc.
* Đất nước trong phương diện cội nguồn lịch sử :
– “Khi ta lớn lên” – “Đất nước đã có rồi”: cội nguồn của đất nước – một đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo đã có từ rất lâu đời.
– Đất nước được cảm nhận từ quá khứ với huyền thoại “Lạc Long Quân và Âu Cơ” cho đến hiện tại với những con người không bao giờ quên nguồn cội dân tộc, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ.
* Đất nước trong phương diện truyền thống văn hoá:
– Đất nước gắn liền với nền văn hoá lâu đời của dân tộc:
+ Câu chuyện cổ tích, ca dao.
+ Phong tục của người Việt: ăn trầu, bới tóc.
– Đất nước lớn lên đau thương vất vả cùng với cuộc trường chinh không nghỉ ngơi của con người:
+ Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gắn với hình ảnh cây tre- biểu tượng cho sức sống bất diệt của dân tộc.
+ Gắn với nền văn minh lúa nước, lao động vất vả.
– Đất nước gắn với những con người sống ân tình, thủy chung.
→ Đất nước không trừu tượng mà ở ngay trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
* Đất nước trong phương diện không gian địa lí:
– Là không gian hò hẹn của tình yêu (lối chiết tự đầy ý nhị vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo, tác giả đã định nghĩa đất nước thật độc đáo).
– Đất nước là nơi chốn sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (nơi dân mình đoàn tụ) → Là sự thống nhất giữa cá nhân với cộng đồng.
– Đất nước còn là không gian rộng lớn tráng lệ hùng vĩ của núi cao, biển cả → Đất nước là những gì gần gũi thân quen gắn bó với cuộc sống mỗi người lại vừa mênh mông rộng lớn.
* Suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ trẻ với Đất nước:
– Đất nước có trong mỗi người, phải biết gắn bó với đất nước và hi sinh để bảo vệ đất nước. Đó là mệnh lệnh của con tim.
→ Đất nước hiện lên vừa thiêng liêng, sâu xa, lớn lao vừa gần gũi, thân thiết với sự sống mỗi người. Cảm nhận về Đất nước vừa bao quát, vừa cụ thể; vừa sâu sắc vừa mới mẻ, trẻ trung. Chất dân gian đậm đặc.
2. Khắc sâu tư tưởng cốt lõi: “Đất Nước của Nhân dân”.
* Cảm nhận Đất nước qua những địa danh thắng cảnh gắn với cuộc sống, tính cách, số phận của nhân dân:
– Tình nghĩa, thuỷ chung (núi Vọng Phu, hòn Trống Mái)
– Truyền thống anh hùng, bất khuất, tinh thần đoàn kết (gót ngựa Thánh Gióng … đất tổ Hùng Vương)
– Truyền thống hiếu học, cần cù, ý chí tự lập, tự cường (người học trò nghèo… núi Bút, non Nghiên)
→ Mỗi tên núi, tên sông, ruộng đồng, gò bãi…đều mang theo “ao ước”, thể hiện “lối sống ông cha”. Đất nước được làm nên từ tâm hồn dân tộc.
– Nghĩ về 4000 năm Đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị: Họ là số đông, âm thầm cống hiến và hi sinh: “Họ đã sống và chết / giản dị và bình tâm / không ai nhớ mặt, đặt tên / nhưng họ đã làm nên Đất nước”.
* Nhân Dân đã làm ra Đất Nước:
– Bằng lao động, nhân dân đã sáng tạo ra nền văn minh vật chất truyền lại cho thế hệ sau.
– Giữ gìn, truyền lại bản sắc văn hóa dân tộc.
– Truyền lại những phẩm chất đẹp đẽ làm nên tính cách người Việt: cần cù trong lao động; say đắm trong tình yêu; tình nghĩa thủy chung mọi quan hệ với con người; căm thù và kiên trì trong chiến đấu bảo vệ đất nước.
– Chống ngoại xâm, nội xâm bảo vệ Đất nước.
→ Để Đất nước này …của ca dao thần thoại : Đây là một định nghĩa giản dị mà độc đáo về Đất nước, ca ngợi công lao của nhân dân: Bảo vệ, giữ gìn đất nước; sáng tạo và gìn giữ bản sắc văn hóa; truyền cho thế hệ sau đức tính đẹp đẽ làm nên tâm hồn dân tộc.
3. Nghệ thuật biểu hiện:
– Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên.
– Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục – tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như ca dao – dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,… Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy.
– Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
– Cảm nhận toàn diện, mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về Đất nước; khơi dậy trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước và cộng đồng, lịch sử.
– Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước.
2. Nghệ thuật
– Thơ trữ tình – chính luận sâu lắng thiết tha; kết hợp giữa suy tưởng và cảm xúc.
– Sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian trong câu thơ hiện đại.
– Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm, hình ảnh vừa quen thuộc vừa mới mẻ.
SÓNG
(Xuân Quỳnh)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Xuân Quỳnh (1942 -1988) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước.
– Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường, bình dị; nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.
– Phong cách nghệ thuật:
+ Nhà thơ của hạnh phúc đời thường: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị.
+ Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc.
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ: – Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Sóng” được viết tại biển Diêm Điền (Thái Bình) năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Sóng là một trong các bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và của thơ hiện đại Việt Nam nói chung.
– Vị trí văn học sử: bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh, góp phần tạo nên vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam”.
– Bố cục (4 phần):
+ Phần 1 (2 khổ thơ đầu): Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng.
+ Phần 2 (2 khổ tiếp theo): Suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu.
+ Phần 3 (3 khổ thơ tiếp theo): Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái trong tình yêu.
+ Phần 4 (còn lại): Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt.
– Chủ đề: Mượn sóng để diễn tả tình yêu của người phụ nữ. Sóng là ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
– Cảm nhận chung:
+ Nhan đề: Sóng.
- Hình tượng trung tâm của tác phẩm: sóng → nói về sóng, nói bằng sóng.
- Trong mối quan hệ với em: vừa song hành vừa chuyển hoá. Sóng chính là em, em chính là tình yêu: sóng = em = tình yêu. Sự sống của em và sóng chỉ thật sự cất nhịp khi tình yêu bắt đầu, còn em, còn sóng là còn yêu và ngược lại ( Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi).
- Hành trình của sóng và em: “Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể.”
+ Vẻ đẹp của hình tượng: vừa truyền thống vừa hiện đại (Sóng gợi nhắc hình ảnh thuyền và bến – biểu trưng cho tình yêu trong ca dao nhưng ở bài thơ, người phụ nữ không bị động mà chủ động tự bạch, tự nhận thức để khao khát dâng hiến)
+ Thể thơ: tự do 5 chữ → phù hợp với việc diễn tả cảm xúc như những con sóng miên man vô hồi vô hạn, lúc trầm tư dịu dàng lúc dạt dào dữ dội.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Tâm trạng của người con gái khi yêu: Băn khoăn và khát vọng (4 khổ thơ đầu).
+ Khổ 1:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
– Sóng được đặc tả ở hai đối cực: “dữ dội” >< “dịu êm”, “ồn ào”><”lặng lẽ” > những trạng thái có thật của sóng ngoài tự nhiên.
– Tương quan sông – bể: tính chất mâu thuẫn
- Sông: không gian nhỏ, hẹp, hữu hạn,nông cạn
- Bể: không gian lớn, rộng, khoáng đạt, sâu sắc
→ Băn khoăn và tìm cách giải đáp: không hiểu nổi mình, tìm ra tận bể. Mượn một qui luật tự nhiên để biểu trưng cho những băn khoăn trong lòng mình. Nước sông tự bao đời vẫn đổ ra biển lớn. Sóng chủ động từ bỏ không gian nông cạn chật chội về với không gian rộng lớn vô hạn, khát khao vượt giới hạn nhỏ bé, vươn tới không gian rộng lớn hơn để lí giải chính mình của con người.
– Đặt trong tính sóng đôi của hình tượng sóng và em: trạng thái của sóng gắn với khí chất của người phụ nữ luôn luôn hài hòa những đối cực (vừa khao khát mãnh liệt vừa trầm tư dịu dàng, vừa sôi nổi rộn rã vừa lặng lẽ âm thầm, thoắt ồn ào vui tươi thoáng đã chìm lắng sâu sa…), khát vọng giải mã chính mình của sóng cũng là khát vọng thành thực, khơi tìm bản chất tâm hồn mình của người con gái.
– Trái tim người con gái đang yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn khao khát vươn tới cái lớn lao, phóng khoáng có thể đồng cảm, đồng điệu với mình:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
→ Quan niệm mới mẻ về tình yêu: người con gái khao khát yêu đương nhưng không nhẫn nhục, cam chịu, từ bỏ nơi chật hẹp để đến với cái cao rộng, bao dung; soi trong tình yêu để khám phá tâm hồn mình.
+ Khổ 2:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
– Thời gian: “ngày xưa” và “ngày sau”. Tình yêu chạy theo chiều thời gian thăm thẳm vẫn mãi mãi tươi mới, mãi không hết “bồi hồi”
– Khám phá mới về sóng: tượng trưng cho sự bất diệt của tuổi trẻ và khát vọng tình yêu.
– Mượn qui luật tự nhiên để diễn tả một triết lí dung dị nhưng thấm thía về tình yêu và tuổi trẻ: còn tuổi trẻ là còn khát vọng, mà khát vọng yêu thương mãi còn tức là con người mãi trẻ trung. (so sánh với triết lí của Xuân Diệu: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại)
– Khát vọng yêu rạo rực, bồi hồi trong ngực trẻ là quy luật của muôn đời. Khát vọng này được cảm nhận như là nỗi khát khao vĩnh hằng, muôn thuở của nhân loại, nhất là của tuổi trẻ. Cũng như sóng, nó mãi trường tồn, vĩnh hằng với tác giả.
+ Khổ 3, 4:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.
– Chuỗi câu hỏi liên tiếp truy đến cùng nguồn gốc của song cũng chính là nguồn gốc của tình yêu.
– Lí trí vận động “em nghĩ” (2 lần) nhưng bất lực “em cũng không biết nữa”: lời thú nhận thành thật, đáng yêu: không biết nguồn gốc của sóng, nguồn gốc của tình yêu
– Khái quát một điều sâu kín trong tình yêu: tình yêu gắn với đức tin, với cảm xúc mà lí trí bất lực. (liên hệ với Xuân Diệu: “Làm sao lí giải được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu…”
– Trăn trở, băn khoăn, tự nhìn lại mình để nhận thức những bí ẩn của tâm hồn mình. Đây là quy luật của tâm lí. Lấy quy luật của tự nhiên để cắt nghĩa cho quy luật tình cảm nhưng không tài nào cắt nghĩa nổi, cuối cùng đành thú nhận một cách chân thành. Người đọc như cảm nhận được cái lắc đầu đáng yêu của cô gái: “Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau”.
b. Nhớ thương và chung thuỷ (khổ 5,6)
+ Khổ 5:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
– Quan sát nhịp vỗ của sóng:
• Chìm (dưới lòng sâu) – nổi (trên mặt nước)
• Nhớ bờ – ngày đêm không ngủ.
– Từ vận động bình thường của sóng, liên tưởng: “Sóng”: Con sóng dưới lòng sâu/ con sóng trên mặt nước → nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được → Sóng liên tiếp, miên man, vô hồi vô hạn, không ngủ được vì nhớ bờ → sóng vì nhớ bờ mà vỗ miên man, vô hồi vô hạn, bất kể ngày đêm → Hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân và phân thân của cái tôi trữ tình.
– Cách nói: dưới lòng sâu – trên mặt nước đã choán nỗi nhớ lên khắp chiều rộng chiều sâu của đại dương – nơi những con sóng mãi thao thức → chiều sâu, chiều rộng của nỗi nhớ, da diết và khắc khoải.
– Liên tưởng nỗi nhớ anh trong em: “cả trong mơ còn thức” → nếu sóng nhớ bờ cả ngày đêm thì nỗi nhớ của em còn vượt mọi giới hạn thời gian, không gian, tràn cả vào chiều sâu của vô thức → nỗi nhớ lắng đọng da diết nhất, sâu kín nhất → nhớ anh là sự sống của trái tim em.
→ “Sóng” và “Em: Là hai hình tượng gắn kết nhau, đan cài vào nhau, chuyển hóa cho nhau để cùng thể hiện những xao động, những sắc thái tâm trạng, những cung bậc tình cảm trong một tâm hồn đang yêu. Tuy hai mà một. Lúc tách ra để soi chiếu vào nhau, tìm nét tương đồng, lúc nhập vào nhau tạo âm vang, cộng hưởng. Điều gì Sóng không nói hết thì Em nói, điều gì Em khó nói thì mượn Sóng nói dùm. Vì thế, những rung động trong tâm hồn của một người phụ nữ đang yêu được thể hiện vừa tế nhị, dịu dàng vừa mãnh liệt, nồng say.
– Hình thức: khổ thơ duy nhất có 6 câu: tăng thêm dung lượng ngôn từ để diễn đạt trọn vẹn hơn nỗi nhớ > nỗi nhớ tràn bờ, phá vỡ mọi giới hạn câu chữ > giống như con sóng nhớ thương bồi mãi, điệp mãi, dềnh lên mãi, vỗ tràn cả thi ca.
+ Khổ 6:
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.
– Vận động của sóng: phong phú, nhiều chiều (xuôi bắc – ngược nam) nhưng nhất phiến (hướng về anh một phương).
– Khẳng định tấm lòng sắc son, như nhất.
– Đến đây, sóng và em đã hoà làm một.
– Tình yêu gắn liền với lòng chung thủy. Đây là nét đặc thù của tình yêu chân chính.
– Dù không gian có rộng lớn, dù hoàn cảnh sống có đổi thay (xuôi – ngược / bắc – nam ) nhưng tình yêu vẫn hướng về một phương duy nhất: phương anh.
– Câu thơ ngời lên vẻ đẹp của một tâm hồn thuần khiết trong tình yêu (chân thành, đằm thắm, trong sáng )
c. Nỗi lo âu phấp phỏng (khổ 7,8).
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
– Tin tưởng và âu lo vẫn là những thái cực khác nhau nhưng cùng tồn tại thống nhất trong một trái tim yêu:
+ Hành trình vượt khó khăn để tới bờ của sóng: “muôn vời cách trở”, nhưng “con nào chẳng tới bờ”. Sóng tới bờ dù cách trở: Tình yêu là sức mạnh để em và anh vượt qua gian lao, thử thách để đạt đến hạnh phúc → Niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.
+ Âu lo, phấp phỏng về sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc (cảm giác thường trực trong thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn sau:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa “
→ Âu lo nhưng không thất vọng mà luôn muốn được sống hết mình cho tình yêu.
d. Ước nguyện dâng hiến, khát vọng bất tử (khổ 9).
– Khát vọng bất tử hóa tình yêu của mình:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ “.
– Số từ: trăm – ngàn.
– Ước nguyện chân thành, lớn lao: muốn hoá thân vào sóng, đại dương để được bất tử bởi chỉ thiên nhiên mới vĩnh viễn trường cửu > vượt qua giới cái hữu hạn của đời người, khát vọng hoá thân vào thiên nhiên để bất tử hoá tình yêu.
– Lí giải bản lĩnh của sóng ở đoạn đầu tiên “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”: bởi sóng mang trong mình khát vọng nhận thức và khát vọng yêu thương mãnh liệt.
– Bày tỏ niềm khát khao bất tử hóa tình yêu trong biển lớn cuộc đời.
– Tình yêu rất nồng nàn, mãnh liệt, đắm say mà không hề ích kỉ được biểu lộ bằng khát vọng giao hòa giữa biển lớn tình yêu.
3. Nghệ thuật biểu hiện:
– Dựa vào việc quan sát, chiêm nghiệm về những con sóng trước biển cả mênh mông, Xuân Quỳnh đã phát hiện ra những cung bậc đa dạng, phức tạp của cảm xúc trong tâm hồn của người phụ nữ đang yêu.
– Niềm khao khát về tình yêu, hạnh phúc của một người phụ nữ vừa truyền thống, vừa hiện đại trong tình yêu.
→ Vẻ đẹp tình yêu, tâm hồn, thơ Xuân Quỳnh: thuỷ chung, dịu dàng, chân thật mà mãnh liệt, khao khát. Nét truyền thống và hiện đại: vẫn mang những nét đẹp truyền thống nhưng tâm thế hoàn toàn hiện đại- vẻ đẹp của trí tuệ – tự nhận thức và khát vọng hiến dâng bất tử (so sánh với hình ảnh người phụ nữ trong ca dao: “Thân em như hạt mưa rào…”)
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
– Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
2. Nghệ thuật:
– Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào, như âm điệu của những con sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu.
– Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng và cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng. Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ tính
– Xây dựng hình ảnh ẩn dụ – với hình tượng sóng, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ
– Bài thơ sử dụng các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, đối lập – tương phản đặc sắc,…
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(Nguyễn Tuân)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Nguyễn Tuân (1910-1987), quê ở Hà Nội. Ông là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
– Trước cách mạng tháng Tám, Nguyên Tuân say sưa khai thác đề tài cái đẹp còn “vang bóng một thời”. Sau cách mạng tháng Tám, ông nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, là cây bút tiêu biểu của văn học cách mạng, hăng say viết về cuộc sống mới, con người mới trong kháng chiến cũng như trong xây dựng.
– Nguyễn Tuân là cây bút văn xuôi tài hoa độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đặc biệt thành công ở thể loại tuỳ bút.
– Tác phẩm tiêu biểu: “Một chuyến đi”, “Vang bóng một thời”…
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: Tùy bút Người lái đò sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 tùy bút của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960.
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “gậy đánh phèn”): sự dữ dội, hung bạo của sông Đà
+ Phần 2 (tiếp đến “dòng nước sông Đà”): cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò
+ Phần 3 (còn lại): vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà.
– Nội dung: “Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Hình tượng con sông Đà dưới góc nhìn nghệ thuật:
– Con sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở thành một sinh thể vừa hung bạo vừa trữ tình.
* Sông Đà là con sông hung bạo, nham hiểm, dữ dằn:
– Hướng chảy của dòng sông: độc đáo, bất thường các dòng sông chảy về đông, chỉ có Sông Đà chảy về Bắc.
– Cảnh đôi bên bờ sông:
+ Đá bờ sông dựng vách thành.
+ Đúng ngọ mới có mặt trời.
+ Chẹt lòng sông như cái yết hầu.
+ Có quãng con nai… bờ kia,…
→ Tất cả gợi sự hiểm trở, hùng vĩ bậc nhất của núi non Sông Đà.
– Cảnh thác nước và âm thanh của nước Sông Đà:
+ Nước xô đá… nợ xuýt.
+ Thở và kêu… cái bị sặc.
+ Nghe như là oán trách… mà chế nhạo.
+ Rống lên như tiếng… cháy bùng bùng: gợi không khí của một trận cuồng lửa, hủy diệt, dùng lửa để tả nước – hai yếu tố vốn tương khắc, giờ lại hòa hợp.
→ Sự hoành tráng, mãnh liệt, hung bạo đến điên cuồng của con sông dữ.
– Những cái hút nước trên mặt sông:
+ Giống như cái giếng… móng cầu.
+ Từ đáy hút nước… cao đến vài sải.
+ Thành giếng xây… pha lê xanh.
+ Cốc pha lê nước khổng lồ.
– Thạch trận Sông Đà:
+ Đá: Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm méo mó. Đứng, ngồi, nằm, nghiêng với những nhiệm vụ riêng được bày sẵn thạch trận thành 3 tuyến.
+ Bày 3 trùng vi nhằm tước đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con người.
* Tóm lại: Con sông mang vẻ đẹp hùng vĩ trong sự hung bạo, dữ dội. Nó trở thành kẻ thù số một của người Tây Bắc.
* Sông Đà còn mang vẻ đẹp trữ tình đầy chất thơ:
– Hình dáng dòng sông đầy thơ mộng: sông Đà tuôn dài tuôn… đốt nương xuân. Mềm mại, duyên dáng, kiều diễm
– Màu sắc: biến đổi theo mùa rất sinh động (Xuân xanh ngọc bích, Thu lừ lừ chín đỏ)
– Không gian:
+ Lặng tờ / tịnh không một bóng người.
+ Bờ sông hoang dại như… cổ tích tuổi xưa.
– Cảnh vật: ngô non/ cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp/ đẫm sương đêm/ con hươu thơ ngộ/ đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi.
* Tóm lại, con sông mang vẻ đẹp thơ mộng, kì thú, tự nhiên như chẳng vướng bụi trần, khơi nhiều cảm xúc cho con người giống như một cố nhân.
2. Hình tượng ông lái đò trí dũng và tài hoa:
– Hình dáng: Ông lái đò có ngoại hình và tố chất khá đặc biệt: dẫu đã 70 tuổi nhưng cái đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun, tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như đang quắp lấy một cuống lái tưởng tượng…
– Sự lão luyện tinh thông trong nghề nghiệp: am hiểu con sông, có thể “nhớ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở” dòng sông mà ông thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng của thiên anh hùng ca.
– Vẻ đẹp nổi bật của người lái đò là vẻ đẹp của sự mưu trí – dũng cảm – tài hoa: Hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, dũng cảm, tài hoa, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng trùng vi thạch trận:
♣ Trùng vây 1:
+ Con sông: thác, đá cực mạnh, cực ác. Vừa thách thức, doạ nạt, vừa đánh đòn cực hiểm. Bốn cửa tử, một cửa sinh; Sóng trận địa phóng thẳng; Mặt nước hò la vang dậy, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo; Sóng nước như quân liều mạng đội thuyền lên; Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình
+ Ông lái đò: bình tĩnh, tỉnh táo ngay cả lúc đã bị thương: ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái, mặt méo bệnh đi nhưng vẫn vang rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo.
♣ Trùng vây 2:
+ Con sông: Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn; Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá; Chúng vẫn không ngớt khiêu khích.
+ Ông lái đò: cưỡi lên thác sông Đà, nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh. Trước bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tử đứa thì ông tránh, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến.
♣ Trùng vây 3:
+ Con sông: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả; Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
+ Ông lái đò: phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa, vụt qua cổng đá cánh mở cánh khép. Con thuyền được ông lao đi như mũi tên tre, vụt qua cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… cứ thế cho đến hết thác…
– Vẻ đẹp còn ông lái đò còn hiện lên khi chở đò, là nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba. Kết thúc công việc, ông là một người bình thường, ngay khi vượt qua hết trùng vi thạch trận: đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá đầm xanh… chả thấy ai bàn tán thêm một lời nào về cuộc chiến thắng thác nghềnh nguy hiểm vừa qua.
3. Nghệ thuật biểu hiện.
– Nguyễn Tuân sử dụng lớp ngôn ngữ rất sống động, phong phú, tinh tế, chính xác, câu văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu.
– Ông tổng hợp trên nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống: từ lịch sử, địa lí, võ thuật, điện ảnh, hội hoạ, điêu khắc… đến quân sự.
– Nghệ thuật nhân hoá, so sánh của nhà văn rất táo bạo.
– Nghệ thuật viết tùy bút điêu luyện bậc thầy khiến con sông đã hung bạo, độc hiểm cũng phải hiện hình rõ nét trên trang giấy của Nguyễn Tuân.
– Vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà hiện lên trong từng trang viết. Đó là vẻ đẹp của một con sông Đà hùng vĩ, hoang dại với vẻ “hung bạo” với những thành vách, hút nước, trùng vây thạch trận. Đó còn là vẻ đẹp của một con sông đã trữ tình, thơ mộng. Hai vẻ đẹp tưởng chừng đối lập lại tụ hội trong một con sông của quê hương Tây Bắc. Sự hài hòa trong cảnh vật thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp của chính núi rừng và vùng đất Tây Bắc – nơi địa đầu của Tổ quốc.
– Đằng sau vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ và thơ mông là hình tượng người lái đò sông Đà. Khi thiên nhiên đã được nâng lên đến mức thần thánh như thách thức con người thì ông lái đò chính là người chinh phục thiên nhiên thần thánh ấy. Hình tượng nhân vật ông lái hiện lên là một người anh hùng trên sông nước với kinh nghiệm dày dạn với tay lái ra hoa và đặc biệt ông lái còn là một con người đời thường, vô danh. Khác hẳn với những nhân vật trước cách mạng của Nguyễn Tuân, ông lái đò mang vẫn xuất hiện với tư cách là con người tài hoa, tài tử nhưng không còn là con người của quá khứ, đối lập với thực tại nữa mà ông lái là con người của hiện tại, đấu tranh với thiên nhiên, núi rừng để sinh tồn.
* Tóm lại, qua tác phẩm, ta cũng thấy được tình yêu, sự say đắm của Nguyễn Tuân trước thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc.
III. Tổng kết.
– Ông lái đò vừa mang vẻ đẹp của một con người với trí dũng vừa mang vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trên sông nước.
– Tác phẩm thể hiện thái độ cảm phục, ngợi ca lao động, ngợi ca sức mạnh và sự làm chủ của con người trước thiên nhiên.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (trích)
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh 1937 tại Huế; là trí thức yêu nước gắn bó sâu sắc với thành phố Huế. Ông là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Tác phẩm của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với trình bày giàu chất thơ và sự vận dụng tổng hợp tri thức triết học, địa lí, lịch sử, văn hóa,… Lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: Bài bút kí viết năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tập bút kí gồm 8 bài kí.
– Vị trí: Đoạn trích này nằm ở phần một cộng với lời kết của tác phẩm.
– Bố cục (2 phần):
+ Phần 1 (từ đầu … “quê hương xứ sở”): hành trình của dòng sông Hương.
+ Phần 2 (còn lại): sông Hương của lịch sử, thơ ca .
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Ý nghĩa nhan đề: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
– Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
– Mang nghĩa hỏi: Chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài như một bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương.
– Mang tính chất biểu cảm:
+ Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi đẹp.
+ Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng ngưỡng mộ, thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương, thành phố Huế thân yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
2. Vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên của dòng Sông Hương.
* Sông Hương, đoạn chảy đầu nguồn:
– Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già.:Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di gan phóng khoáng man dại.
- Rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
- Cũng chính rừng già nơi đây đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái Sông Hương.
→ Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
– Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
→ Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
⇒ Vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, đầy sức hấp dẫn.
* Sông Hương, đoạn chảy ngoại vi thành phố:
– Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm.
+ Từ ngã ba Tuần – theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén.
+ Chuyển hướng sang tây bắc vòng qua Nguyệt Biều, Lương Quán.
+ Đột ngột rẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.
→ Như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi gặp thành phố tương lai của nó.
– Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo vô cùng.
+ Qua Vọng Cảnh, Tam Thai: Dòng sông mềm như tấm lụa, tạo những mảng phản quang nhiều màu sắc…
+ Đến vùng rừng thông u tịch, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn: Dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như triết lí, như cổ thi.
+ Tới ngoại ô Kim Long: vẻ đẹp tươi vui….
→ Sông Hương như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu.
* Cuộc gặp gỡ giữa Sông Hương và thành phố Huế:
– Khi nhìn thấy Cầu Tràng Tiền như vành trăng non in gần trên nền trời.
+ Uốn một cánh cung rất nhẹ, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng.
+ Sông Hương giảm hắn lưu tốc, xuôi đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây
+ Sông Hương và Huế hoà vào làm một, SH làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng của Sông Hương.
→ Cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu.
* Sông Hương, đoạn chảy trước khi rời Huế:
– Rời khỏi kinh thành, Sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
– Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố- tình nhân lần cuối.
– Nói câu thề: còn non, còn nước, còn về, còn nhớ
→ Sự lưu luyến, bịn rịn của đôi tình nhân trong chia biệt. Gợi liên tưởng đến mối tình Kim Trọng- Thuý Kiều.
3. Vẻ đẹp văn hoá, thi ca, lịch sử của dòng sông.
* Dòng sông âm nhạc:
– Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
– Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
– Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
* Dòng sông thi ca:
– Là vẻ đẹp mơ màng “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà.
– Vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát.
– Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
– Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
→ Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân.
* Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
– Màn sương khói trên Sông Hương bằng màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
– Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: “rất dịu dàng và rất trầm tư…”
* Dòng sông Hương với lịch sử hào hùng của mảnh đất cố đô.
– Là một dòng sông anh hùng:
+ Từ xa xưa: là một dòng biên thuỳ xa xôi của đất nước của các vua Hùng.
+ Thời trung đại: Dòng Linh Giang đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc Đại Việt. Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.
+ Thời chống Pháp: Sống hết lịch sử bi tráng với máu của các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. Đi vào thời đại CM tháng Tám với những chiến công rung chuyển.
+ Thời chống Mĩ: Góp mình vào chiến dịch Mùa xuân 1968 Mậu Thân.
– Sông Hương cùng với thành phố Huế chịu nhiều đau thương mất mát:
+ Sông Hương là dòng sông có bề dày lịch sử như một người con gái anh hùng, khi Tổ quốc gọi nó tự biết hiến đời mình làm một chiến công.
+ Sông Hương là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.
→ Sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của Sông Hương được tác giả khám phá và khắc hoạ từ góc độ lịch sử.
4. Hình tượng cái “tôi” trữ tình của tác giả.
– Tình yêu thiết tha đến say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi xứ Huế.
– Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử và giàu chất trữ tình lãng mạn.
5. Nghệ thuật biểu hiện:
– Sông Hương được tái hiện bằng một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương của tác giả. Những cảm xúc sâu lắng cùng văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa đã tạo nên sức hấp dẫn của đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
– Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình đầy chất thơ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong cuộc hành trình trở về với người tình thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như trưởng thành, thay đổi, lớn lên để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại trở thành một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở
– Qua đoạn trích, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
+ Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp phong phú của sông Hương dưới nhiều góc độ và mối quan hệ của sông Hương với vẻ đẹp và văn hóa xứ Huế.
+ Thể hiện cái tôi uyên bác, tài hoa và mê đắm của tác giả.
2. Nghệ thuật:
– Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa. Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình.
– Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả – dòng sông Hương.
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
(Nguyễn Thi)
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
– Nguyễn Thi (1928- 1968). Tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở Hải Hậu – Nam Định.
– Nguyễn Thi sinh ra trong một gia đinhg nghèo, mồ côi cha từ năm 10 tuổi, mẹ đi bước nữa nên vất vả, tủi cực từ nhỏ.
– Năm 1943, Nguyễn Thi theo người anh vào Sài Gòn. Năm 1945, tham gia cách mạng. Năm 1954, tập kết ra Bắc. Năm 1962, trở lại chiến trường miền Nam.
– Hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân 1968.
b. Sự nghiệp sáng tác:
– Nguyễn Thi còn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn.
– Sáng tác của Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết.
– Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
– Tư tưởng và phong cách nghệ thuật:
+ Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ.
+ Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung “rất Nguyễn Thi”.
+ Họ là những con người yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù bọn xâm lược, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao – những con người dường như sinh ra để đánh giặc.
+ Họ thể hiện được tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa.
2. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”:
a. Xuất xứ: Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn – chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng (tháng 2 năm 1966). Sau được in trong Truyện và kí, NXB Văn học Giải phóng, 1978.
b. Tóm tắt tác phẩm:
Những hồi ức của Việt trong lần tỉnh dậy thứ tư:
– Cảm thấy cô đơn, sợ ma cụt đầu, muốn bò tìm nơi súng nổ để về với đồng đội.
– Nhớ lại chuyện hai chị em giành nhau đi bộ đội, bàn bạc việc nhà đêm trước ngày nhập ngũ.
– Sáng hôm sau đó, hai chị em khiêng bàn thờ mẹ gởi sang nhà chú Năm để lên đường.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Nghệ thuật kể chuyện:
– Đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Việt, kể qua dòng hồi tưởng miên man đứt nối khi Việt bị trọng thương nằm ở lại chiến trường.
– Tác dụng:
+ Đem đến màu sẳc trữ tình đậm đà, tự nhiên và tạo điều kiên cho tác giả thâm nhập sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt câu chuyện.
+ Diễn biến câu chuyện rất linh hoạt, không phụ thuộc vào trật tự thời gian và không gian: Từ hiện thực chiến trường → hồi tưởng quá khứ gần xa → từ chuyện này chuyển sang chuyện khác rất tự nhiên.
2. Vẻ đẹp truyền thống yêu nước của một gia đình Nam Bộ:
a. Đặc điểm chung của các thành viên trong gia đình:
– Có truyền thống yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.
– Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc.
– Giàu tình nghĩa, thuỷ chung son sắt với quê hương và cách mạng.
b. Đặc điểm tính cách riêng:
– Nhân vật chú Năm:
+ Người thân lớn tuổi duy nhất còn lại trong gia đình, từng bôn ba khắp nơi, cưu mang các cháu khi ba mẹ Việt – Chiến hi sinh.
+ Người đề cao truyền thống gia đình, hay kể sự tích của gia đình để giáo dục con cháu, cần mẫn ghi chép trong cuốn sổ gia đình tội ác của giặc và chiến công của các thành viên .
+ Người lao động chất phác nhưng giàu tình cảm và có tâm hồn nghệ sĩ (thích câu hò, tiếng sáo). Tiếng hò “khàn đục, tức như tiếng gà gáy” nhưng đó là tâm tư, khát vọng của tâm hồn ông.
+ Tự nguyện, hết lòng góp sức người cho cách mạng khi thu xếp cho cả Việt và Chiến lên
đường tòng quân.
→ Trong dòng sông gia đình, chú Năm là thượng nguồn, là kết tinh đầy đủ những nét truyền thống.
– Nhân vật má Việt:
+ Rất gan góc khi dẫn con đi đòi đầu chồng, hiên ngang đối đáp với bọn giặc, không run sợ trước sự doạ bắn, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
+ Rất mực thương chồng thương con, đảm đang, tháo vát, cuộc đời chồng chất đau thương nhưng nén chặt tất cả để nuôi con và đánh giặc.
+ Ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà – nông lép vẫn còn nóng hổi trong rổ; linh hồn luôn sống mãi, bất tử trong lòng các con mình.
→ Điển hình cho người mẹ miền Nam luôn anh dũng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
3. Chiến, Việt – Những đứa con trong gia đình
a. Nhân vật Chiến:
– Chiến có những nét giống mẹ:
+ Mang vóc dáng của má: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to và chắc nịch”.
+ Đặc biệt giống má ở cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội:
- Biết lo liệu, toan tính mọi việc nhà (“nói nghe in như má vậy”), đảm đang, tháo vát.
- Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình.
- Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng đã lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”.
– Có tính cách đa dạng:
+ là một cô gái vừa mới lớn nên tính khí còn rất “trẻ con”
+ là một người chị biết nhường nhịn em, biết lo toan, đảm đang, tháo vát.
– Nét khác biệt so với người mẹ:
+ Trẻ trung, thích làm duyên làm dáng
+ Đươc trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lời thề như dao chém: “Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất”.
→ Đó là vẻ đẹp của con người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng để chiến đấu và chiến thắng.
b. Nhân vật Việt:
– Có nét riêng của cậu con trai mới lớn, tính tình còn trẻ con, ngây thơ, hiếu động:
+ Chiến hay nhường nhịn bao nhiêu thì Việt tranh giành phần hơn với chị bấy nhiêu: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội …
+ Thích đi câu cá, bắn chim, đến khi đi bộ đội vẫn còn đem theo ná thun trong túi.
+ Đêm trước ngày lên đường: Trong khi chị đang toan tính, thu xếp chu đáo mọi việc (từ út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gởi bàn thờ má), bàn bạc trang nghiêm thì Việt vo lo vô nghĩ:
- vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”.
- vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”.
- ngủ quên lúc nào không biết
+ Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con: “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị trước những lời đùa của anh em.
+ Bị thương nằm lại chiến trường: sợ ma cụt đầu, khi gặp lại anh em thì như thằng Út ở nhà “khóc đó rồi cười đó”
– Vừa là một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường:
+ Còn bé tí: dám xông thẳng vào đá thằng giặc đã giết hại cha mình
+ Lớn lên: nhất quyết đòi đi tòng quân để trả thù cho ba má
+ Khi xông trận: chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc
+ Khi bị trọng thương: một mình giữa chiến trường, mặt không nhìn thấy gì, toàn thân rã ròi, rõ máu nhưng vẫn trong tư thế quyết chiến tiêu diệt giặc. “Tao sẽ chờ mày … Mày có bắn tao thi tao cũng bắn được mày … Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”
→ Kế tục truyền thống gia đình nhưng Việt và Chiến còn tiến xa hơn, lập nhiều chiến công mới hiển hách.
c. Hình ảnh chị em Việt khiêng bàn thờ ba má sang gởi nhà chú Năm:
– Gợi không khí thiêng liêng, tập quán lâu đời của thôn quê Việt Nam
– Không khí thiêng liêng đã biến Việt thành người lớn: Lần đầu tiên Việt thấy rõ lòng mình (“thương chị lạ”, “mối thù của thằng Mĩ thì có thể rờ thấy, vì nó đang đè nặng ở trên vai”).
→ Hình ảnh chất chứa nhiều ý nghĩa:vừa có yếu tố tâm linh, vừa trĩu nặng lòng căm thù, vừa chan chứa tình yêu thương.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
– Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
2. Nghệ thuật:
Bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua:
– Giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật
– Miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo
– Ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ…
VỢ CHỒNG A PHỦ
(Tô Hoài)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Tô Hoài (1920-2014) là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Sáng tác của ông thể hiện vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là phong tục và sinh hoạt đời thường. Nghệ thuật văn xuôi của Tô Hoài có nhiều đặc sắc: lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú và đậm tính khẩu ngữ.
2. Tác phẩm.
– Xuất xứ: “Vợ chồng A Phủ” (1952) in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến … “bao giờ chết thì thôi”): Tâm trạng và hoàn cảnh sống của Mị.
+ Phần 2 (tiếp theo đến ... “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ.
+ Phần 3 (còn lại): Cuộc tự giải thoát của Mị và A Phủ.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Nhân vật Mị:
a. Lai lịch:
– Trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa, yêu đời.
– Siêng năng, hiếu thảo, khao khát tự do.
– Được nhiều trai bản theo đuổi, có người yêu .
→ Lẽ ra sẽ được hưởng một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc.
b. Số phận:
– Bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mỵ trở thành con dâu gạt nợ, chịu kiếp sống nô lệ. Cuộc đời đầy cay đắng và tủi nhục.
+ Bị bóc lột sức lao động, làm lụng như kiếp con trâu, con ngựa.
+ Bị hành hạ, đánh đập, bị áp chế cả về tinh thần lẫn thể xác.
– Mị sống lầm lũi trong xó nhà, cô đơn, lặng lẽ ( lùi lũi như con rùa trong xó cửa, mặt cúi xuống, buồn rười rượi, không buồn nói năng, căn buồng Mị ở như ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị) .
– Cái khổ, cái nhục đã khiến Mị tê liệt mọi cảm giác, mất tinh thần phản kháng, cam phận.
c. Sức sống tiềm tàng:
– Bị áp chế đến tận cùng, tưởng chừng như tê liệt cả tinh thần, song sâu thẳm trong tâm hồn Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, chờ có dịp thì trỗi dậy.
- Lần thứ nhất: Ý định ăn lá ngón tự tử:
– Không chấp nhận thực tại: trốn về nhà, đêm nào cũng khóc, định tự tử bằng lá ngón. Đau đớn, phản kháng nhưng thương cha (hiếu thảo) đành ném lá ngón trở lại nhà thống lí Pá Tra sống tiếp kiếp nô lệ tủi nhục. Sống lâu trong cái khổ, tâm hồn Mị dần trơ lì cảm xúc .
- Lần thứ hai: Trong đêm tình mùa xuân:
– Tác nhân khiến tâm hồn Mị hồi sinh:
+ Không khí của đất trời vào xuân, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết -> tác động vào tâm hồn.
+ Men rượu nồng → tác động vào thể xác.
– Diễn biến tâm lý của Mị trong đêm tình mùa xuân:
+ Lắng nghe tiếng sáo, bồi hồi , Mị nhẩm thầm theo tiếng sáo.
+ Uống rượu, say lịm người, nhìn mọi người nhảy đồng, hát nhưng lòng thì đang sống về ngày trước, nhớ lại kỉ niệm êm đềm thời con gái hạnh phúc.
+ Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước, cảm nhận được tuổi trẻ của mình.
+ Ý thức về cảnh ngộ hiện tại, không chấp nhận thực tại đó, muốn giải thoát bằng nắm lá ngón.
+ Đầu Mị rập rờn tiếng sáo, Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn, thắp sáng căn buồng như muốn xua đi bóng tối phủ trùm đời mình, muốn thắp sáng phần đời còn lại.
+ Sửa soạn đi chơi: quấn tóc, với lấy cái váy hoa – hành động nhanh, dứt khoát ngay trước mặt A Sử
+ Khi bị A Sử trói đứng, vẫn thả hồn theo tiếng sáo, vùng bước đi – thể xác bị cầm tù nhưng tâm hồn lại tự do.
+ Nhớ lại chuyện có người từng bị trói đứng như mình đã chết, Mị sợ và cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Sợ chết là biểu hiện của ham sống.
+ Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật được tác giả miêu tả sâu sắc, tinh tế và phù hợp.
- Lần thứ ba: Đêm cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và chính mình:
– Diễn biến tâm lí của Mị trước và sau khi cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và cho chính:
+ Thoạt đầu: thấy A Phủ bị trói chờ chết, Mị vẫn thản nhiên, bởi đời Mị đã chịu quá nhiều đau khổ.
+ Khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò trên hõm má xám đen của A Phủ, Mị đã nhớ lại cảnh bị A Sử trói năm trước, động lòng trắc ẩn cảm thương cho người cùng số phận, nhận chân kẻ thù, ý thức về thân phận, cuộc sống của mình. Từ chỗ thương mình đến thương người, Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ.
+ A Phủ thoát rồi, Mị sợ chết, lòng ham sống trỗi dậy, Mị vùng chạy theo tự giải thoát cho chính mình. Cùng một lúc, Mị chiến thắng cả thần quyền lẫn cường quyền.
d. Nhận xét: Qua nhân vật Mị, người đọc thấy được thân phận của người phụ nữ miền núi dưới ách thống trị phong kiến. Tác phẩm khẳng định sức sống tiềm tàng, khát vọng tình yêu, hạnh phúc, khát vọng tự do của người dân miền núi. Nhân vật Mị chính là số phận của dân tộc Mèo trong quá trình lột xác vươn lên. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật hết sức đọc đáo.
2. Nhân vật A Phủ.
– Cảnh ngộ: Bất hạnh: mồ côi, không còn người thân thích.
– Thân phận nghèo hèn bị áp bức, bóc lột. Nghèo khổ, không lấy được vợ.
– Tính cách: Mạnh mẽ, gan góc, là đứa con của núi rừng tự do nhưng vẫn không thoát khỏi số phận tôi đòi.
+ Không sợ phải đối mặt với bọn con quan, trị chúng đích đáng: Đánh A Sử bằng một trận đòn hào hứng.
+ Cam phận nô lệ:
- Bị trói, bị đánh đập trở thành nô lệ từ hôm phạt vạ.
- Mất bò, tự chôn cột, lấy dây mây trói mình thế mạng.
– Có hai con người đối lập nhau trong một con người A Phủ duy nhất và thống nhất (cường tráng, bất khuất )
– Nhân vật A Phủ vừa thống nhất vừa bổ sung cho hình ảnh của Mị để thấy sự vươn lên của người dân miền núi.
3. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
a. Giá trị hiện thực:
+ Phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống tủi nhục đắng cay của người dân lao động ở vùng caoTây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến tàn bạo.
+ Lên án những thế lực phong kiến, thực dân áp bức tàn bạo thông qua hình ảnh của cha con thống lý Pá Tra: Chúng đã bóc lột, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần người dân lao động nghèo, miền núi.
+ Thông qua cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã diễn tả thật sinh động quá trình thức tỉnh vươn lên tìm ánh sáng cách mạng của người dân nghèo Tây Bắc.
b. Giá trị nhân đạo:
+ Xót thương, cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ cả về tinh thần và thể xác của người nông dân nghèo miền núi dưới ách thống trị của bọn chúa đất.
+ Phát hiện,trân trọng và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người, nhất là tình yêu tự do và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân miền núi Tây Bắc.
+ Lên án, tố cáo ách thống trị phong kiến miền núi bạo tàn, lạc hậu đã chà đạp và bóc lột con người đến xương tủy.
+ Mở ra cho nhân vật một lối thoát, hướng người lao động nghèo khổ đến con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù.
4. Nghệ thuật biểu hiện:
– Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…).
– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.
– Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý; dẫn dắt những tình tiết đan xen, kết hợp một cách khéo léo, tạo sức lôi cuốn.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Mỗi nhân vật được sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lý với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.
– Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.
III. Tổng kết.
– Tô Hoài đã xây dựng thành công tình huống truyện cuốn hút, đặc sắc, gay cấn. Hình tượng nhân vật được khắc họa sinh động, có cá tính riêng. Nghệ thuật trần thuật cùng giọng kể trầm lắng, đầy cảm thông. Ngôn ngữ được chọn lọc, sáng tạo vừa lãng mạn vừa giàu tính tạo hình.
– “Vợ chồng A Phủ” ẩn chứa nhiều giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông của tác giả với số phận khổ đau, cùng cực của những con người phải chịu sự áp bức, lên án tố cáo bọn thống trị miền núi, bọn thực dân man rợ và đồng thời ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt, tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
* Tham khảo:
Phân tích nhân vật Mị và A Phủ.
1. Nhân vật Mị
a. Cảnh ngộ của nhân vật Mị:
– Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí: cha mẹ nghèo, không trả được nợ (món nợ từ ngày cưới, lớn dần lên vì nặng lãi), Mị làm dâu gạt nợ cho cha mẹ.
– Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại, làm không ngưng nghỉ: “Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà con gái nhà này thì làm không nghỉ tay”.
– Mị sống trong một căn phòng chỉ có một ô vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài cũng không thể biết được trời nắng hay mưa chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng.
b. Tâm trạng và hành động:
Tâm trạng và hành động của Mị cho thấy, trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ, đó là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt và khi có cơ hội sẽ bùng phát.
c. Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:
– Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”.
– Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.
– Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. “Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”. Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.
→ Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.
d. Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:
Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:
– Cảnh sắc của Hồng Ngài trong những ngày xuân: “Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác”, “Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà.”
– Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. “Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
– Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, “Tai Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”…
e. Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:
– Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: “Mị phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: “Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết”…
– Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
– Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
– Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm, hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà, Mị vẫn đang ru mình trong đêm xuân. Tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉnh giấc, nàng đã trở lại với hiện tại đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
g. Diễn biến tâm lý trong đêm đông:
– Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”, vì cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà thống lí thường xuyên.
– Nhưng “Mị lé mắt trông sang… một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.
– Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: “ở đây thì chết mất”.
– Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.
2. Nhân vật A Phủ.
a. Xuất thân của A Phủ:
– Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản Mường, nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ.
– Là con người không bao giờ chùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.
b. Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà thống lí:
– Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van, xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
– Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng”, “cày nương”, “cuốc mương”, “săn bò tót”, “bẫy hổ”, “chăn bò”, “chăn ngựa”, “quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.
– Khi bị hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.
c. Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:
– Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.
– Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.
– Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khuỵu xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên, chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lí. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do ở người con trai mang bản chất tốt đẹp này.
d. Nhận xét:
Cuộc đời và số phận của nhân vật Mị và A Phủ chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do của bản thân. Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.
VỢ NHẶT
(Kim Lân)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Kim Lân (1920-2007) là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về người nông dân làng quê Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của ông thường là khung cảnh nông thôn và người nông dân. Kim Lân “một lòng một dạ đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”.
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập truyện Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau CMTT 1945 nhưng dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
– Bố cục (4 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “tự đắc với mình”): Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.
+ Phần 2 (tiếp đến “đẩy xe bò về”): kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
+ Phần 3 (tiếp đến “nước mắt chảy ròng ròng“): Tình thương của người mẹ nghèo khó.
+ Phần 4 (phần còn lại): niềm tin vào tương lai tươi sáng.
– Nội dung: Qua câu chuyện nhặt vợ của nhân vật Tràng, Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện đưuọc bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Ý nghĩa nhan đề.
– Nhan đề “Vợ nhặt” thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm:
+ “Vợ” là người quan trọng san sẻ cả cuộc đời với người đàn ông. Để có vợ, theo phong tục người ta phải tìm hiểu và cưới xin đường hoàng, trang trọng.
+ “Nhặt”: người ra chỉ nhặt được những thứ nhỏ bé, đánh rơi.
→ Nhan đề truyện hé mở tình huống anh Tràng có vợ một cách dễ dàng như nhặt được cái rơm, cái rác ở ngoài đường, cụ thể là Tràng “nhặt được vợ” chỉ bằng vài câu hò đùa và bốn bát bánh đúc.
– Từ nhan đề, thấy được thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác có thể nhặt ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ còn ở đây Tràng lại nhặt vợ. “Nhặt vợ” là “nhặt” được hạnh phúc, nhưng khi nó không còn là hạnh phúc nữa mà trở thành cái khốn cùng của cuộc sống. Đây thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
– Trong hoàn cảnh cái đói, cái chết đang bủa vây cuộc sống của mình mà con người vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
2. Tình huống truyện độc đáo.
– Tình huống truyện diễn ra trong một khoảnh khắc đặc biệt: nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang đe dọa cuộc sống từng con người trong mỗi gia đình, làng xóm (cái đói, cái chết tràn khắp mọi nơi tưởng chừng có thể tiêu diệt ý chí sống của con người: những đứa trẻ không buồn nhúc nhích, người sống như những bóng ma, xanh xám; người chết như ngả rạ, thây nằm còng queo bên lề đường; không gian sặc mùi xác chết, quạ kêu thê thiết, tiếng khóc hờ, khóc tỉ tê trong đêm…)
– Trên nền bức tranh thảm đạm đó, Tràng lại dẫn một người đàn bà lạ về nhà. Tình huống Tràng nhặt được vợ đã làm cho mọi người vô cùng ngạc nhiên:Trẻ con, người lớn, mẹ của Tràng và bản thân Tràng cũng không ngờ được, cứ ngỡ ngàng như không phải.
– Ai cũng ngạc nhiên vì:
+ Người như Tràng mà lấy được vợ (xấu trai, dở hơi, nghèo, dân ngụ cư).
+ Thời buổi cái đói đang đe dọa mạng sống của con người, đến nuôi thân còn chẳng xg mà còn dám lấy vợ
– Nhưng, nếu không gặp tình cảnh này dễ gì Tràng có vợ.
→ Tình huống lạ, éo le, giàu kịch tính, rất độc đáo là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Qua tình huống độc đáo này, chủ đề của tác phẩm được bộc lộ.
3. Nhân vật Tràng.
a. Tràng là người lao động nghèo, tốt bụng:
– Giữa lúc cái đói đang đe dọa mạng sống của chính mình, anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ.
– Lúc đầu Tràng chỉ đùa, khi người phụ nữ ấy theo thật thì “chợn” nhưng rồi vẫn chậc lưỡi “kệ”. Anh đưa chị về trước hết là vì cưu mang người lúc khốn khó (thị rách tả tơi, đói đến mất cả thể diện)
b. Tràng khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc:
– Tràng “nhặt” người phụ nữ trước hết là vì thương người nhưng sâu xa hơn, anh cũng khát khao hạnh phúc, khát khao một tổ ấm gia đình. Bởi thế:
– Trên đường dẫn người phụ nữ về nhà, Tràng thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình, cười nhiều với đủ các kiểu cười khác nhau.
– Giới thiệu vợ với mẹ một cách hãnh diện và đầy tình cảm: “Kìa, nhà tôi nó chào u”.
– Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ: xúc động, phấn chấn, cảm thấy yêu thương và gắn bó với gia đình hơn, muốn làm việc gì đó để tu bổ lại căn nhà, có ý thức về bổn phận, cảm thấy mình nên người hơn .
→ Niềm vui và sự cảm nhận hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé của Tràng trong tình cảnh giữa sự sống và cái chết cách nhau bằng một ranh giới mong manh tô đậm chất nhân văn sâu sắc: Cuộc sống dù có bi thảm đến đâu cũng không thể dập tắt được niềm khát khao chính đáng của con người. Đó là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao một tổ ấm gia đình, khát khao được sống như một con người, được nên người.
4. Nhân vật bà cụ Tứ.
– Là một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con, nhân hậu, lạc quan, có niềm tin vào cuộc sống.
– Diễn biến tâm lí của bà trong quá trình nhận dâu được miêu tả tinh tế, phù hợp.
+ Thoạt đầu, bà ngạc nhiên, đứng sững lại, hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn, quay nhìn Tràng không hiểu.
+ Băn khoăn ngồi xuống khi nghe người đàn bà chào.
+ Khi hiểu ra, trong bà chồng chéo những cảm xúc:
- Xót thương cho số kiếp đứa con mình.
- Tủi thân vì chưa làm tròn bổn phận của một người mẹ.
- Lo âu bởi biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
- Cảm thông và xót thương cho người phụ nữ tội nghiệp.
- Mừng vì con trai lấy được vợ.
→ Bà chấp nhận nàng dâu với tất cả tấm lòng độ lượng, nhân hậu, thể hiện tình thương yêu chân thành, đằm thắm đối với con dâu. Vượt lên trên tình thương ấy là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ.
+ Sau khi nhận dâu, bà tin tưởng vào cuộc sống, vào tương lai, an ủi, động viên con, cầu mong cho con thuận hòa, no đủ:
- Nói đến chuyện nuôi gà, chuyện sẽ có một đàn gà nay mai.Bà bày cho con cách làm ăn, tin vào cuộc sống.
- Nói đến triết lí “ai giàu ba họ ai khó ba đời” để động viên con về một viễn cảnh thoát đói nghèo. Đó cũng là triết lí sống sâu sắc, lạc quan của người bình dân.
- Thu dọn, quét tước nhà cửa, sân vườn mong mang lại một sinh khí mới.
+ Mừng con dâu mới bằng một nồi “chè khoán”:
- Hình ảnh nồi cháo cám (chè khoán) mừng nàng dâu mới là bằng chứng của một tấm lòng giàu tình yêu thương trong một cảnh đời ngặt nghèo, nghiệt ngã. Đây là chi tiết não lòng, gây ấn tượng mạnh, xúc động lòng người.
- Ý thức về bổn phận, tình thương và niềm tin vào cuộc sống đã tạo nên vẻ đẹp của nhân vật cụ Tứ.
5. Nhân vật người “vợ nhặt”.
– Hiện thân của sự đói rách: Áo quần tả tơi như tổ đỉa, ngực lép, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt …
– Tập hợp “không”: Không gốc gác quê hương, họ hàng, không nhà cửa, không có nổi cái tên, không duy trì nổi lòng tự trọng để phải theo không Tràng chỉ sau bốn bát bánh đúc.
– Chấp nhận theo không một anh chàng xấu xí, nghèo khổ, chưa hiểu rõ như thế nào về tính tình, gia cảnh. Bởi lẽ, trước hết, là tìm chốn nương thân qua mùa đói kém. Sâu xa hơn, cũng như Tràng, chị khát khao một mái ấm gia đình, khát khao hạnh phúc:
+ Theo Tràng trong tâm trạng ngượng ngùng.
+ Sáng hôm sau: cuộc sống gia đình biến đổi thị thành “người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn”.Cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa, sân vườn mong mang lại một sinh khí mới.
+ Khi nhận chén cháo cám của mẹ chồng mừng nàng dâu mới, mắt chị tối lại nhưng vẫn điềm nhiên và chén cháo vào miệng . Chị chấp nhận sự đói rách trước mắt, chị đã cảm nhận được sự đền bù của đời dành cho mình: Không tránh được đói rách nhưng chị đã có được tình thân, tình thương, có được ý thức về bổn phận đối với người khác. Đấy là cái cao hơn cả mọi miếng cơm manh áo ở đời. Nỗi tủi nhục được thay thế bằng hạnh phúc gia đình đơn sơ, bé nhỏ.
6. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
*a. Giá trị hiện thực:
– Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.
Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp
b. Giá trị nhân đạo:
– Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam
– Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt.
– Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
– Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.
7. Nghệ thuật biểu hiện:
– Mạch truyện đã được dẫn dắt một cách tự nhiên, hợp logic, các cảnh trong truyện đều xuất phát từ tình huống anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói khủng khiếp: giữa ngày đói kém, một anh cu Tràng “quá lứa”, “dở hơi” đưa một người đàn bà “rẻ rúng” về làm vợ. Mạch truyện bắt đầu từ đó: sự kiện khôi hài này tất yếu gây ra những lời bàn tán hài hước và xót xa; rồi màn bi – hài kịch diễn ra trong nhà cụ Tứ. Cuối cùng tác giả đã tìm được lối thoát cho truyện: giữa những âm thanh của tiếng trống thúc thuế, dồn người ta đến bước đường cùng, hình ảnh lá cờ Việt Minh và đoàn người phá kho thóc của Nhật trong câu chuyện mơ hồ và xa xôi (Nghe đâu tận Thái Nguyên, Bắc Giang) xuất hiện và ám ảnh trong đầu óc của Tràng.
– Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình. Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc. Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
– Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ – một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân
III. Tổng kết.
– Tác phẩm tố cáo tội ác diệt chủng của bọn thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói 1945, thể hiện niềm xót xa, cảm thông của nhà văn đối với nỗi thống khổ của con người trong tình cảnh bi đát.
– Khám phá, trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người. Niềm tin sâu sắc vào phẩm giá của họ. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, cái đói, cái chết đe dọa, người dân lao động vẫn hướng về sự sống và khát khao tổ ấm gia đình, khát khao được sống như một con người, được nên người. Trong cái đói, họ vẫn cưu mang, đùm bọc, chia sẻ miếng cơm manh áo cho nhau. Nhà văn tin vào sự đổi đời của những con người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội cũ.
RỪNG XÀ NU
(Nguyễn Trung Thành)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả.
– Nguyễn Trung Thành (1932) là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Những thành công lớn nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông cũng gắn với mảnh đất này. Sáng tắc của ông mang đậm tính sử thi, phản ánh những nhân vật anh hùng tiêu biểu cho cộng đồng, những vấn đề lớn của cộng đồng .
2. Tác phẩm.
– Xuất xứ: “Rừng xà nu” được viết năm 1965 – thời điểm đế quốc Mĩ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở vào thời kì ác liệt.
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”): Hình ảnh rừng xà nu
+ Phần 2 (tiếp đó đến “giội lên khắp người như ngày trước”): Câu chuyện Tnú sau ba năm đi lực lượng về thăm làng
+ Phần 3 (còn lại): Câu chuyện về cuộc đời bi tráng của Tnú và câu chuyện chiến đấu của dân làng Xô Man được cụ Mết kể lại.
– Nội dung:
+ Câu chuyện thứ nhất là câu chuyện về sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến tự giác của dân làng Xô Man, với triết lí cách mạng được cụ Mết – trưởng bản, đúc kết “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”
+ Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về cuộc đời của Tnú – một người con của núi rừng Tây Nguyên, của bản làng Xô Man. Tnú lớn lên trong không khí cả làng làm cách mạng nên con người ấy nhanh chóng bén duyên. Cuộc đời của Tnú là cuộc đời của biết bao nhiêu con người, cũng là hình ảnh biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường đứng dậy trong cuộc đọ sức cam go với đế quốc Mĩ.
→ Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đặt vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của nhân dân và đất nước mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
II. Đọc hiểu văn bản:
1. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
– Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm, là cảm hứng chủ đạo, là dụng ý nghệ thuật của tác giả.
– Rừng xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống tinh thần, vật chất của làng Xô Man.
– Rừng xà nu là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đầy sức sống, khao khát ánh sáng mặt trời, luôn sinh sôi nảy nở, bất chấp sự hủy diệt của đạn bom.
– Rừng xà nu là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, niềm khao khát tự do và tinh thần bất khuất kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
→ Nhan đề tác phẩm mang cả ý nghĩa tả thực và ý nghĩa tượng trưng, chứa đựng cảm xúc của nhà văn và tư tưởng chủ đề tác phẩm, gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, sức sống bất diệt của cây và tinh thần bất khuất của con người.
2. Hình tượng cây xà nu.
– Cây xà nu chịu nhiều đau thương:
+ Làng ở trong tầm đại bác của giặc, đạn bắn đã thành lệ vào nhiều thời điểm trong ngày.
+ Rừng xà nu nằm trong sự hủy diệt bạo tàn, trong tư thế của sự sống đang đối diện với cái chết.
+ Với kĩ thuật quay toàn cảnh, tác giả đã phát hiện ra: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương”. Đấy là sự đau thương của một khu rừng mà tác giả chứng kiến.
– Nỗi đau hiện ra nhiều vẻ khác nhau:
+ Có cái xót xa của những cây con, tựa như đứa trẻ thơ: “vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết”.
+ Cái đau của những cây xà nu như con người đang tuổi thanh xuân, bỗng “bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”. Những cây có thân hình cường tráng: “vết thương của chúng chóng lành”, đạn đại bác không giết nỗi chúng.
→ Nhà văn đã mang nỗi đau của con người để biểu đạt cho nỗi đau của cây: gợi lên cảm giác đau thương của một thời mà dân tộc ta phải chịu đựng.
– Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, kiên cường trước sự hủy diệt của bom đạn kẻ thù:
+ Tác giả đã phát hiện được sức sống mãnh liệt của cây: “trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy”. Đây là yếu tố cơ bản để xà nu vượt qua ranh giới của sự sống và cái chết.
+ Sự sống tồn tại ngay trong sự hủy diệt. Đạn đại bác không giết nổi chúng. Những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Cạnh một cây mới ngã gục, bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.
+ Tác giả sử dụng cách nói đối lập (ngã gục- mọc lên; một- bốn năm) để khẳng định một khát vọng thật của sự sống.
+ Cây xà nu đã tự đứng lên bằng sức sống mãnh liệt của mình: “…cây con mọc lên, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng (khao khát ánh sáng , tự do).
+ Có những cây vượt lên được, cành lá sum suê…
+ Đạn giặc không giết nổi chúng.Đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời.
→ Xà nu đẹp một vẻ đẹp hùng tráng, man dại đẫm tố chất núi rừng.
– Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống của dân làng Xô Man:
+ Xà nu không những tự biết bảo vệ mình mà còn bảo vệ sự sống, bảo vệ làng Xô Man: “Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”.
+ Khói xà nu xông bảng, lửa xà nu trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng rừng đêm đồng khởi …
+ Hình tượng mang tính ẩn dụ cho những con người chiến đấu bảo vệ quê hương.
– Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm: “đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất diệt không chỉ của con người Tây Nguyên mà còn cả miền Nam, cả dân tộc.
→ Những câu văn đẹp, gây ấn tượng + nhân hóa, ẩn dụ: gợi vẻ đẹp mang đậm tính sử thi, biểu tượng cho cuộc sống đau thương nhưng kiên cường và bất diệt.
* Nhận xét: Hình tượng rừng xà nu mở đầu và khép lại, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Xà nu vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày, trong lịch sử, trong truyền thống của dân làng Xô man. Xà nu cũng có mặt hầu như ở tất cả những sự kiện trọng đại của làng. Xà nu được miêu tả trong sự ứng chiếu với con người và ngược lại. Xà nu thực sự là một nhân vật có linh hồn. Nó là biểu tượng toàn diện cho nỗi đau, phẩm chất, sức mạnh của dân làng Xô man.
3. Hình tượng nhân vật Tnú.
– Gan góc, dũng cảm, bất khuất:
+ Thuở còn nhỏ:
- Tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc, xẻ rừng, vượt thác.
- Thích nơi hiểm nguy.
- Bị giặc bắt thì nuốt thư, bị tù thì vượt ngục.
- Học chữ thua Mai thì đập đầu tự trừng phạt mình
+ Khi trưởng thành:
- Chỉ huy thanh niên, đội du kích lấy đá mài rựa, giáo, mác chống lại kẻ thù.
- Bị giặc đốt mười ngón tay Tnú không thèm kêu van.
– Giàu lòng yêu thương:
+ Đối với quê hương: Ba năm đi lực lượng trở về làng nghe âm thanh tiếng chày, đến con nước lớn đầu làng…chân vấp , tim đập bồi hồi, xúc động nhớ từng kỉ niệm, ghi nhớ hình ảnh rừng xà nu.
+ Đối với gia đình: Tình cảm sâu nặng.
- Xé tấm giồ làm địu cho con.
- Đau đớn khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man(bứt đứt hàng chục trái vả, mắt như hai cục lửa lớn).
- Tay không nhảy xổ ra giữa lũ giặc,che chở cho vợ con.
– Biết vượt lên bi kịch cá nhân:
+ Giặc kéo về làng để tiêu diệt phong trào nổi dậy. Để truy tìm Tnú, chúng bắt và tra tấn bằng gậy sắt đến chết vợ con anh.
+ Bản thân bị giặc hủy hoại mười đầu ngón tay
+ Đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần nhưng Tnú vẫn đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, trừng trị kẻ thù, bảo vệ quê hương. (Bàn tay Tnú: yêu thương – đau đớn – trả thù).
+ “Tnú không cứu được vợ con” – cụ Mết nhắc tới 4 lần như một điệp khúc day dứt, đau thương trong câu chuyện kể và nhằm nhấn mạnh: khi chưa có vũ khí, chỉ có hai bàn tay không thì ngay cả những người thương yêu nhất cũng không cứu được.
– Trung thành với cách mạng, có tính kỉ luật cao:
+ Quyết học chữ thay anh Quyết làm cán bộ, lãnh đạo phong trào cách mạng của quê hương.
+ Bị tra tấn, không khai báo, không kêu van.
+ Nghỉ đúng phép dù tình cảm quê hương sâu nặng, quyến luyến.
– Hình ảnh bàn tay của Tnú:
+ Khi nguyên vẹn: là đôi bàn tay tình nghĩa. (cầm phấn viết chữ, lao động, khi bị giặc bắt chỉ vào bụng: cộng sản ở đây này), che chở cho mẹ con Mai…)
+ Khi tật nguyền: vẫn vững vàng cầm vũ khí. (…)
* Chân lí được đúc rút từ câu chuyện bi tráng của Tnú:
– Tnú không cứu được vợ con mình. Bản thân bị giặc bắt, trói chặt bằng dây rừng và đốt tay bằng nhựa xà nu →Tnú cường tráng, mạnh mẽ, gan góc, có nhiều phẩm chất nhưng vẫn không cứu được vợ con, không bảo vệ được tình yêu và không cứu được chính đời mình bởi anh chỉ có tay không.
→ Chân lí tất yếu: “Chúng nó đã cầm súng , mình phải cầm giáo”. Chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách mạng. Bởi khi chúng ta cầm súng đứng lên chống lại súng đạn của kẻ thù thì mọi thứ đều thay đổi (lửa sẽ tắt trên tay Tnú, lửa soi xác giặc ngổn ngang, lửa cháy sáng rừng đêm trong đêm đồng khởi).
– Tnú và dân làng Xô Man quật khởi, đứng dậy cầm vũ khí:
+ Trong đêm Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay, dân làng đã nổi dậy “ào ào rung động”, cứu được Tnú, tiêu diệt bọn ác ôn. Tiếng cụ Mết như mệnh lệnh chiến đấu: “Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!”. Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng. Câu chuyện về cuộc đời một con người trở thành câu chuyện một thời, một nước.
– Sau khi hồi phục, Tnú vào lực lượng, tiếp tục chống giặc.
– Lớp cán bộ mới trưởng thành: Dít, thằng bé Heng
→ Kế tục việc chiến đấu của cha ông.
→ Số phận, tính cách của Tnú tiêu biểu cho nhân dân Tây Nguyên thời chống Mĩ, là sáng ngời chân lí: chỉ có cầm vũ khí đứng lên là con đường sống duy nhất, mới bảo vệ những gì là thiêng liêng nhất, và mọi thứ sẽ thay đổi.
* Mối quan hệ giữa hai hình tượng rừng xà nu và Tnú:
+ Gắn bó khăng khít, bổ sung cho nhau để cùng hoàn chỉnh.
+ Rừng xà nu sẽ không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt khi con người còn chưa thấm thía bài học: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”
* Nhận xét: Tnú là nhân vật trung tâm được xây dựng bằng bút pháp giàu chất sử thi. Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường đấu tranh của dân tộc Tây Nguyên. Là một trong những hình tượng thành công của Nguyễn Trung Thành và văn học chống Mỹ cứu nước.
4. Tập thể anh hung làng Xô Man
– Cụ Mết: là hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh tập hợp để nổi dậy.
– Mai, Dít: là vẻ đẹp của thế hệ hiện tại (kiên định, vững vàng trong bão táp chiến tranh).
– Bé Heng: là thế hệ tiếp nối để đưa cuộc chiến đến thắng lợi cuối cùng.
→ Cuộc chiến khốc liệt đòi hỏi mỗi người phải có sức trỗi dậy mãnh liệt.
→ Họ là sự tiếp nối các thế hệ, làm nổi bật tinh thần bất khuất của dân tộc.
5. Nghệ thuật biểu hiện.
– Câu chuyện được kể theo hình thức truyện lồng truyện, truyện của một đời người của Tnú lại được kể trong một đêm qua lời kể của cụ Mết.
– Xây dựng được không khí sử thi hào hùng, tráng lệ qua lối kể khan của cụ Mết ở nhà ưng tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và truyền thuyết. Chất sử thi được thể hiện ở đề tài có ý nghĩa lịch sử (sự vùng dậy của dân làng Xô Man chống lại Mĩ Diệm), chủ đề rộng lớn, cốt truyện xoay vòng, nhân vật (Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất của anh hùng thời đại.), hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng, các chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giọng điệu trầm hùng.
– Ngôn ngữ đặc sắc, mang đậm chất Tây Nguyên. Cách thức trần thuật: kể theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết (già làng), kể bên bếp lửa gợi nhớ lối kể “khan”, sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, những bài “khan” được kể như những bài hát dài hát suốt đêm.
– Xây dựng được những hình tượng đặc sắc mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là hình tượng của cây xà nu; hình tượng những thế hệ xà nu – những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; hình tượng người anh hùng Tnú.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
– Tác phẩm ca ngợi tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của dân làng Xô man, của đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói riêng và đất nước, con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
– Rừng xà nu là thiên sử thi của thời đại mới. Tác phẩm đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: phải cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù bạo tàn để bảo vệ sự sống của đất nước, nhân dân.
→ Ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của những người con Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Khẳng định chân lý thời đại: theo cách mạng là tất yếu, lấy bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản CM để giải phóng quê hương.
2. Nghệ thuật:
– Khuynh hướng sử thi: được thể hiện đậm nét ở tất cả các phương diện:
+ Chủ đề: những biến cố có ý nghĩa trọng đại của dân tộc,
+ Hình tượng: hoành tráng, cao cả của núi rừng và con người,
+ Hệ thống nhân vật: có sức sống mạnh mẽ, mang cốt cách của cộng đồng,
+ Giọng điệu kể: trang nghiêm, hào hùng…
– Cách thức trần thuật: kể theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết, kết hợp truyện về cuộc đời của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man .
– Cảm hứng lãng mạn:
+ Đề cao vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong sự đối lập với sự tàn bạo của kẻ thù.
+ Lời văn trau chuốt, giọng văn tha thiết, ngôn ngữ giàu tính tạo hình…
Tham khảo:
Cảm nhận hình tượng Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu“ (Nguyễn Trung Thành)
– Giới thiệu Nguyễn Trung Thành và truyện ngắn Rừng xà nu.
– Tnú là nhân vật chính của truyện ngắn Rừng xà nu. Đó là một đứa trẻ cha mẹ mất sớm, Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng. Tnú được cụ Mết nhận xét : “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta’’.
– Tnú là người con gan góc, táo bạo của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, bỏ ra ngoài suối ngồi suốt ngày, sau đó, lấy một hòn đá “tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng’’ để sáng hôm sau lại ngượng ngùng gọi Mai ra phía sau hốc đá hỏi xem “chữ o có móc là chữ chi’’.
+ Nhưng “đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng’’. Khi làm liên lạc, Tnú không đi đường mòn. Qua sông, khôn lội chỗ nước êm, mà “cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình’’.
+ Khi bị giặc bắt và tra tấn, Tnú không hé răng một lời dù bị địch tra tấn dã man.
+ Khi bị địch đốt cháy mười ngón tay, Tnú nghiến răng chịu đựng chứ quyết “không thèm kêu van’’.
– Đây cũng là một con người có mối thù chồng chất với quân giặc. Chúng không chỉ giết hại dân làng mà còn giết hại vợ con anh và khiến hai bàn tay anh “mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt’’.
– Tnú còn là một chàng trai dũng cảm và trung thành với cách mạng.
+ Những ngày ấy, làng Xô Man bị kẻ thù khủng bố điên cuồng “không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng’’. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng ; bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì đã vào rừng nuôi cán bộ. Sau cùng đến lũ trẻ thay người già làm việc này. Tnú và Mai là hai đứa trẻ hăng hái nhất. Có đêm, chúng ngủ luôn ở ngoài rừng, vì đề phòng giặc lùng phải có người “dẫn
cán bộ chạy’’.
+ Lòng trung thành với cách mạng của Tnú đã được bộc lộ qua nhiều thử thách. Khi bị giặc bắt, giải về làng, tra hỏi chỗ ở của cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói : “ở đây này’’. Lưng Tnú ngang dọc biết bao vết dao chém của bọn lính.
+ Khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man bằng gậy sắt, mặc dù tay không, Tnú dũng cảm nhảy vào giữa lũ giặc đang điên cuồng. Nhưng anh không cứu được vợ con, bản thân bị giặc bắt và đốt hai bàn tay bằng giẻ tẩm dầu xà nu.
+ Khi được dân làng cứu thoát, dù hai bàn tay đã cụt đốt, Tnú gia nhập giải phóng quân như một tất yếu… Phẩm chất anh hùng của Tnú là ở chỗ biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân : gia nhập bộ đội, chiến đấu dũng cảm, giết giặc để trả thù cho quê hương và gia đình.
– Căm thù mãnh liệt, Tnú cũng la người biết yêu thương sâu sắc. Ba năm đi bộ đội, Tnú da diết cảnh và người của buôn làng quê hương.
– Số phận và tính cách của nhân vật Tnú tiêu biểu cho dân làng Xô Man và con người Tây Nguyên.
– Nhân vật Tnú góp phần tô đậm chủ đề và làm nên màu sắc sử thu của truyện ngắn “Rừng xà nu’’.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(Nguyễn Minh Châu)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả.
– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), là nhà văn xuất sắc trong nền văn học chống Mĩ cứu nước và thời kì đổi mới. Ông là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Nguyễn Minh Châu không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
2. Tác phẩm.
– Xuất xứ: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết vào tháng 8 năm 1983, in trong tập truyện ngắn cùng tên. Tác phẩm là một trong số những sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đến cuối thế kỉ XX
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
+ Phần 2 (tiếp đó đến “chống chọi với sóng gió giữa phá”): Câu chuyện về người đàn bà hàng chài
+ Phần 3 (còn lại): Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
– Nội dung: Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đòi đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Những phát hiện của Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
a. Phát hiện thứ nhất: bức tranh tuyệt đẹp trên biển.
– Bức tranh biển sáng mờ sương, pha hồng và hình ảnh chiếc thuyền lưới vó xa xa → vẻ đẹp toàn thiện, toàn bích.
– Hành động: chụp liên tiếp → dùng nghệ thuật để phản ánh, để ghi lại vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống.
– Nhận thức: Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc, tâm hồn như được gột rửa → Tác động tích cực của cái đẹp đến con người: cái đẹp gắn liền với các thiện.
→ Đó là một bức tranh toàn bích, hiếm có, tác động sâu sắc vào tình cảm của Phùng.
b. Phát hiện thứ hai: bức tranh cuộc đời nghiệt ngã.
– Đến gần: đằng sau bức tranh toàn bích là sự thực cuộc đời: phũ phàng, trớ trêu.
+ Người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu.
+ Người đàn ông vũ phu, thô bạo.
+ Người con để bảo vệ mẹ phải làm điều trái đạo lí.
→ Đó là sự thật đau đớn khiến Phùng kinh ngạc, đau đớn, giận dữ, can thiệp.
c. Ý nghĩa từ hai phát hiện và nhận thức của Phùng:
+ Hãy cảnh giác, đừng để cái đẹp bên ngoài che mắt ta.
+ Bức tranh tuyệt bích về chiếc thuyền chỉ là tấm ảnh phản ánh bề mặt. Nghệ thuật không phải lúc nào cũng phản ánh được chân thực chiều sâu cuộc sống.
+ Nghệ thuật: tạo tình huống nghịch lí, bất ngờ để nhân vật phát hiện sự thực cuộc đời, sự thực về con người. Đó chính là tình huống nhận thức.
2. Câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án.
a. Người đàn bà đầy nghị lực và hiểu đời:
– Được gọi lên hầu tòa, được khuyên bỏ chồng → từ chối, kể chuyện cuộc đời mình để lí giải lí do.
– Xuất thân: gia đình khá giả, xấu, không ai muốn lấy.
– Có mang với người con trai làng chài nghèo, hiền lành.
– Bị đánh đập thô bạo: nghèo, đẻ nhiều, điều kiện sống chật chội, tối tăm → bi kịch số phận nghiệt ngã.
– Thái độ: chấp nhận, nín nhịn, xin được đem lên bờ đánh → nạn nhân của nạn bạo lực gia đình. Nhưng qua đó ta cũng thấy được bản chất nhẫn nhịn, đức hi sinh của người đàn bà hàng chài.
– Van xin: phạt tù cũng được, đừng bắt bỏ chồng:
+ Cần một người đàn ông để cùng nuôi đàn con → Lấy hạnh phúc của con làm hạnh phúc của mình.
+ Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận vui vẻ → chắt chiu, trân trọng hạnh phúc.
+ Hiểu chồng, thông cảm và vị tha với chồng.
→ Người đàn bà ít học nhưng thấu tình đạt lí, giàu đức vị tha và sự hi sinh, luôn chắt chiu, nâng niu từng giọt hạnh phúc.
b. Phùng, Đẩu – những người lính căm ghét bất công:
– Nghe câu chuyện của người đan bà hành chài: Cảm thông, căm giận, quyết tâm giải quyết.
– Khuyên li hôn vì cho rằng đó là giải pháp tốt nhất: nặng lí, giải quyết theo pháp luật.
– Nghe câu chuyện của người đan bà hành chài:
c. Ý nghĩa từ cau chuyện ở tòa án:
+ Hiện thực không chỉ là cái bên ngoài, hiện thực còn là cái nằm sâu bên trong tâm hồn.
+ Cuộc sống, con người rất phức tạp, không thể giải quyết đơn giản theo lí lẽ, cần phải có một cái nhìn đa chiều để có thể thấu hiểu và giải quyết thấu đáo mọi chuyện.
3. Vấn đề bạo lực gia đình trong tác phẩm:
– Người chồng:
+ Từ một cậu trai hiền lành thành người đàn ông thô bạo, tàn ác.
+ Thay đổi do hoàn cảnh sống quá khắc nghiệt: nặng nhọc, kiếm sống khó khăn, con đông, điều kiện sống chật chội.
+ Vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của cuộc sống khó khăn, nghèo túng…
– Phác:
+ Bênh mẹ bằng cách đánh lại cha → bất lực trước nghịch cảnh.
+ Nhiễm thói bạo lực từ nhỏ → gia đình sẽ có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành nhân cách của trẻ → Vừa cảm thông, thương xót nhưng cũng không hoàn toàn đồng tình: cái nhìn đa diện.
4. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy.
– Chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” là chi tiết khép lại truyện ngắn, đồng thời cũng là một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
* Màu hồng của sương mai: cái đẹp của cuộc đời, của nghệ thuật.
– Bức ảnh nghệ thuật được nhiếp ảnh gia Phùng chụp ở bãi biển năm nào đã trở nên nổi tiếng, trở thành tác phẩm nghệ thuật lí tưởng cho những nhà sành nghệ thuật. Đó là bức ảnh hoàn mĩ, là kết tinh của vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên, tài năng và sự may mắn của người nghệ sĩ
– Trong cảm nhận của Phùng, bức tranh không còn chất thơ mộng, lãng mạn nghệ thuật nữa mà thấm đượm hơi thở của cuộc đời. Chính những cảm nhận này đã mang đến những ám thị đặc biệt cho Phùng mỗi lần nhìn lại bức ảnh mình từng chụp.
– Khi nhìn vào bức ảnh, Phùng không còn hạnh phúc như khi bắt gặp được khoảnh khắc trời cho ấy nữa mà đầy những trăn trở, suy tư bởi anh là người hiểu hơn ai hết sự thật tàn khốc đằng sau một khung cảnh toàn bích, hoàn hảo.
* Người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh: sự chân thật của cuộc đời.
– Chỉ Phùng mới có cái nhìn khác về tác phẩm nghệ thuật của mình phải chăng Phùng đã từng chứng kiến câu chuyện đầy éo le, nghịch lí bên trong hay Phùng đã biết nhìn bằng trải nghiệm, dám nhìn sâu vào hiện thực dẫu tàn khốc, vô tình.
* Thông điệp:
– Thông qua tình huống truyện đặc sắc, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những quan niệm sâu sắc về cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ với con người.
– Nghệ thuật chỉ là nghệ thuật chân chính nếu như phản chiếu được hiện thực cuộc sống của con người.
– Cần phải rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời.Nghệ thuật không thể tách rời, thoát li cuộc sống.
5. Nghệ thuật biểu hiện:
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc đến gần để tạo ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người đọc.
– Cách khắc họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ sử dụng rất linh hoạt, sáng tạo góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm
– Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
– Trần thuật chủ yếu từ Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh kể lại chuyến đi thực tế của mình, lối kể tự nhiên, chân thực, nhân vật dễ dàng bộc lộ những phát ngộ của mình.
III. Tổng kết:
– Từ bức tranh nghệ thuật và sự thực cuộc đời, tác giả đưa ra bài học:
+ Cần phải có một cái nhìn đa diện, đa chiều, phát hiện bản chất thật sau vẻ bên ngoài của hiện tượng, để có thể có một cái nhìn thấu hiểu, để có thể có cách giải quyết thấu đáo mọi chuyện.
+ Nghệ thuật phải phản ánh chân thực cuộc đời.
– Đằng sau bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm mà anh tình cờ chụp được là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình hàng chài. Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (trích)
(Lưu Quang Vũ)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả:
– Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, sáng tác truyện ngắn, vẽ tranh…nhưng thành công nhất là kịch. Ông không chỉ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong số những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” viết năm 1981, ra mắt công chúng năm 1984, là một trong số những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
– Vị trí: Kịch VII cảnh. Đoạn trích thuộc cảnh cuối.
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “Vợ Trương Ba bước vào”): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
+ Phần 2 (tiếp đó đến “Không cần!”): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình
+ Phần 3 (còn lại): Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba, Đế Thích và quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba
– Nội dung: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu, thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa trước sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục; vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt (Độc thoại của hồn):
a. Trước khi đối thoại với xác:
– Không muốn sống như thế này, chán lắm rồi…
– Bắt đầu sợ xác, muốn rời xa ngay tức khắc
→ Chán chường, sợ hãi, khao khát được thoát ra mà không được: đau đớn, bế tắc. Đây chính là những lời độc thoại nội tâm nhân vật: câu cảm thán ngắn, nhịp điệu dồn dập: thể hiện trạng thái căng thẳng, bế tắc.
b. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác:
– Hồn Trương Ba:
+ Cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
+ Xem xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, âm u, đui mù, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt.
+ Thái độ: từ quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.
– Xác anh hàng thịt:
+ Cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt.
+ Thái độ: từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế.
→ Cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng.
c. Cuộc đấu tranh chống lại sự chi phối của xác:
– Hồn:
+ Mày không có tiếng nói, chỉ là xác thịt âm u, đui mù: phủ định sự tồn tại của xác.
+ Ra sức khẳng định hồn có một cuộc sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
– Xác ra sức khẳng định:
+ Xác thịt có tiếng nói, hồn luôn bị sai khiến, có khi lấn át cả hồn:
- Hồn cũng cảm thấy thèm muốn vợ anh hàng thịt.
- Thèm ăn ngon.
- Đánh con tóe máu mồm → dẫn chứng không thể chối cãi.
+ Xác khẳng định hồn và xác tuy hai mà một. Nhờ xác hồn có thể nhìn ngắm đất trời, làm lụng, quốc xới.
– Hồn: lí lẽ yếu ớt, kém thuyết phục.
– Xác: giọng mỉa mai với những sự thật trần trụi và hiển nhiên khó bề chối cãi.
– Xác dỗ dành: cứ đổ tội cho xác, miễn là thỏa mãn những thèm khát của xác.
– Hồn không muốn những cũng chẳng có cách nào khác.
– Như vậy trong cuộc đấu tranh này, phần thắng đã nghiêng về xác.
→ Bi kịch sống dựa nhờ, không được là mình, bên trong một đàng, bên ngoài một nẻo. Hồn dần bị xác chi phối, dần trở nên tha hóa.
d. Ý nghĩa: Qua cuộc đối thoại ta thấy được ý đồ nghệ thuật của Lưu Quang Vũ:
– Khắc đậm bi kịch của hồn Trương Ba: bi kịch sống dựa nhờ, không được là mình, bên trong một đàng, bên ngoài nột nẻo và bi kịch bị tha hóa.
– Hồn được coi trọng, được đề cao. Cuộc đấu tranh chống lại sự sai khiến của xác là rất đáng trân trọng.
– Thể xác cũng có tiếng nói riêng. Không thể quá xem thường thể xác và quá đề cao tâm hồn → quan điểm mới mẻ và hiện đại quan niệm: phủ nhận thể xác đề cao tinh thần của dân gian.
* Bài học:
– Con người phải được sống là chính mình, chân thật, hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn ≠ sống giả.
– Khi con người sống trong dung tục thì trước sau con người sẽ bị cái dung tục lấn át, tàn phá → đấu tranh để loại bỏ cái dung tục, cái xấu xa…
– Cần phải chú trọng chăm sóc cả phần xác lẫn phần hồn để con người có thể phát triển toàn diện.
2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân.
a. Với người vợ:
– Trương Ba bị vợ kết án:
+ Vô tình với bà con láng giềng.
+ Phản bội lại tình nghĩa vợ chồng.
+ Làm hư con cái.
→ Trương Ba đau đớn, xấu hổ, cảm thấy có lỗi.
b. Với người cháu:
– Trương Ba bị cháu kết tội:
+ Làm hỏng cây, làm hỏng diều → bị xem là xấu, ác.
– Bị cấm đoán không được động vào cây, không được nhận là ông nội, cút đi.
→ Trương Ba bị cháu chối từ, bị phủ nhận, bị xua đuổi: đau đớn tột cùng.
c. Với con dâu:
– Không bị kết tội, được cảm thông.
– Chỉ ra thực tại:
+ Nhà ta sắp tan hoang ra cả.
+ Thầy đang mất mát, lệch lạc…
d. Suy nghĩa và hành động của Trương Ba:
– Ngày càng không phải là mình, làm khổ người thân, bị vợ, con, cháu kết tội; dần bị xa lánh ngay trong nhà mình. Trương Ba cảm thấy chán ghét ngay chính mình.
– Suy nghĩ, đấu tranh, quyết định: không cần…
3. Cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích.
– Hồn Trương Ba yêu cầu: được thoát khỏi xác hàng thịt → được chết, được giải thoát.
– Lí do:
+ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn → được là chính mình, sống đúng là mình.
+ Không phải sống mà là sống như thế nào?: sống đúng đắn, sống tốt đẹp, sống hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, không vì được sống mà đánh đổi tất cả.
→ Quyết định đau đớn thể hiện quan niệm sống đúng đắn, nhân văn, sâu sắc quan niệm của Đế Thích.
– Từ chối nhập vào xác cu Tị (lần hai) vì:
+ Không muốn lặp lại cái sai trước.
+ Có những lỗi lầm đã sai là không sửa được, càng sửa càng sai. Nên sửa bằng cách làm một việc đúng.
+ Tình yêu, sự hi sinh → nhân cách bừng sáng.
→ Quyết tâm không lay chuyển, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại thói dung tục, tầm thường, bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp lẽ tự nhiên, hoàn thiện nhân cách.
– Trả lại xác, hồn Trương Ba nhập vào cây cối, bên người thân mãi mãi → tồn tại bất tử trong cõi nhớ của người thân.
4. Nghệ thuật biểu hiện.
– Xây dựng tình huống truyện kịch đầy căng thẳng đạt đến cao trào rồi giải quyết mẫu thuẫn một cách logic, hợp lí, thỏa đáng.
– Xây dựng đối thoại, độc thoại sắc nét, đạm chất triết lí tạo nên chiều sâu cho đoạn kịch, không chỉ giúp nhân vật bộc lộ bản chất, suy nghĩ của cá nhân mình mà còn giúp cho người đọc, người xem suy ngẫm về những triết lí được gửi gắm trong mỗi câu thoại của các nhân vật.
– Hành động kịch của nhân vật phù hợp với tính cách, hoàn cảnh, góp phần thúc đẩy tình hống, xung đột kịch phát triển. Nghệ thuật độc thoại nội tâm giúp nhân vật bộc lộ tính cách và quan niệm về lẽ sống đúng đắn
– Có kết hợp giữa những vấn đề thời sự và vấn đề muôn thuở: Đó là lối sống giả dối của con người hiện đại, giữa những dục vọng thấp hèn với những khát khao cao cả….
III. Tổng kết.
* Qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” , Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp:
– Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.
– Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
– Con người phải luôn luôn biết dấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.