Nhận xét Nhận xét: Từ xưa đến nay, từ Homer đến các tác phẩm kinh điển đến ca dao Việt Nam, thơ ca vẫn là một nguồn cảm thông mạnh mẽ và hào phóng.Nó ra đời trong niềm vui nỗi buồn của con người, và nó sẽ bầu bạn với con người cho đến tận cùng thời gian. (Hoài cổ)
Thơ là nhạc cụ của tâm hồn, là nhịp thở của tâm hồn. Xưa nay thơ là lẽ sống, là lương tâm, kêu gọi con người trở về với bản chất chân thật của mình, vươn tới chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sinh tồn, tầm cao của giá trị. Khi nói về thơ, Hoài Thanh đã khẳng định: “…Từ nay về sau, từ Homer đến Jingshi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một niềm cảm thương mạnh mẽ và bao dung. Nó sinh ra trong niềm vui nỗi buồn của con người, nó sẽ bầu bạn với con người cho đến tận thế.” Điều này giúp chúng ta hiểu đúng giá trị của thơ và hiểu rõ hơn những tư tưởng tình cảm được thể hiện trong thơ.
Nhà phê bình Hoài Thanh bày tỏ quan điểm độc đáo về giá trị của thơ. Thơ – không hơn không kém, nhưng nó là “vẻ đẹp của cuộc sống” được tái hiện, gửi vào nhịp điệu của tiếng đàn thơ. Thơ ca đối với con người giống như sữa mẹ đối với trẻ sơ sinh, giống như người đi bộ trong sa mạc tìm thấy một dòng nước ngọt.
Thơ luôn là người bạn tâm giao, sẻ chia vui buồn với nhân loại, thơ là “sự đồng cảm mạnh mẽ và rộng lượng” với mọi tâm hồn. Chắc hẳn ít ai trong chúng ta quên được những ngày thơ ấu, khi “à bang bang bang” ru ta vào những giấc mơ mà bà thường hát ru. Lớn lên bây giờ cũng vần, cũng lời ru đưa ta vào đời. Làm sao quên được “Con cò bay”, con cò trắng đi vào ký ức ta như một bài thơ ngọt ngào, tình cha con bỗng sống dậy, đánh thức lòng ta. Tôi sống có ý nghĩa hơn và yêu cuộc sống hơn. Thế mới là thơ! Nó như một sợi dây vô hình đã ăn sâu vào lòng người ta từ tuổi ấu thơ cho đến khi trưởng thành.
Câu thơ đẹp là nốt nhạc, cô thôn nữ vỗ mặt nước trăng bạc:
Ôi cô gái đánh đổ nước đi
Nàng múc ánh trăng Vệ Nữ đổ đi.
Ánh trăng lung linh tràn khắp mọi nơi, như ánh trăng của tình yêu lao động mà thơ ca gợi lên trong lòng ta. Thơ không của riêng ai, là tiếng hát của tất cả mọi người sống và làm việc, nên cô thôn nữ vỗ mặt nước đã ngân vang tiếng thơ và bắt tay vào công việc của mình hăng say hơn. Nếu “thơ là điện” (Huy Cận) thì đời người giúp thắp sáng dòng điện.Và nỗi nhớ quê của người nông dân xa quê mới
Làm thế nào cao cấp và xác thực!
Nỗi nhớ người xa quê rất thực và thực, nó bắt nguồn từ cái đời thường nhất của “canh rau”, “dưa cà”. Đoạn thơ thể hiện những khát vọng mà người dân đất nước muốn gửi gắm. Thơ quả là tạo ra một “sự đồng cảm mạnh mẽ” đối với con người và cuộc đời. Đoạn thơ không chỉ là nỗi niềm nhớ quê hương, niềm vui được sẻ chia công lao mà còn là tâm trạng của những cô gái trẻ nghĩ về mẹ: con gái lấy chồng không xa núi sông.
Nhìn lại quê hương, Baishui hùng mạnh
Sao em xa như đảo vắng?
Con biết bưng bát canh cho mẹ.
Những vần thơ cứ bay bổng, dần hiện ra tình mẹ con trong lòng mỗi người. Nếu văn học nghệ thuật là tiếng gọi của tâm hồn trở về với tâm hồn thì thơ ca (một bộ phận của văn học nghệ thuật) “Biểu hiện, nhân vật và thời gian một cách đẹp đẽ” (sóng đỏ). Về mặt thể hiện cuộc sống, thơ góp tiếng nói đẹp, làm giàu tâm hồn con người, giúp con người hiểu nhau, biết yêu cái đẹp, từ đó sống chân thực, tử tế hơn.
Chính vì giá trị thẩm mỹ của thơ mà ta thấy tình yêu trong thơ Xuân Điệp thật đẹp và trìu mến! thơ:
Ai có thể định nghĩa được tình yêu?
ý nghĩa của biểu hiện buổi chiều là gì
Nó lấp đầy tâm hồn tôi với những tia nắng mặt trời
Có những đám mây nhẹ nhàng và những cơn gió nhẹ nhàng.
Đã có lúc độc giả cho rằng nó quá lãng mạn và quá tây, nhưng thời gian đã chứng minh tất cả. Đó là quan niệm tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu, một thi sĩ đa tình. hay câu thơ:
Tôi là một, tôi là riêng tư, tôi là người đầu tiên
tôi không có bạn bè để hỗ trợ tôi
Thể hiện cái “tôi” cá nhân đòi hỏi sự khẳng định, và thơ làm được điều đó. Nó giúp người ta hiểu hơn tấm lòng của nhà thơ và đánh giá thơ ông một cách tổng quát hơn.
Nhiều nhà thơ và nhà văn coi thơ là “cảm hứng tinh thần” (Plato) như một “nữ hoàng của thể loại” hay như Cynthias đã nói: “thơ là nữ hoàng của nghệ thuật” bằng chứng – những nghệ sĩ mà họ biết có ảnh hưởng rất lớn. Thơ nên dùng nó như một cách thể hiện muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Thơ không có cánh, nhưng “nữ hoàng nghệ thuật” sẵn sàng lan tỏa tình yêu cái đẹp cho mọi người. Biết bao nhà thơ đã mượn cây đàn ấy để tâm sự, sẻ chia. Cũng như người lính xa nhớ quê, có người “đeo gạo xay gạo nấu canh” đợi chồng hay người lính:
chặt một nhánh của sự xấu hổ
đẩy vào trang sổ ghi chép của tôi
Và chỉ có bạn biết.
(Anh em Ngọc, Cây xấu hổ)
Để làm cho cuộc sống trước mắt và tầm nhìn về một ngày mai tốt đẹp hơn, thơ ca còn là nhịp cầu tình cảm, nối những trái tim đang khao khát và có được chỗ đứng vững chắc trước cuộc đời.
“Thơ là tiếng nói của trái tim” (Diệp Tiên) lại lay động trái tim khát khao. Trong bài “Ziwei”, bài thơ chia sẻ niềm vui “đồng cảm” và sự thương hại của vợ Hulun. Tình cảm con người đặt trong thơ mà chỉ nói vui, buồn, đau thì không phải là thơ. Thơ cũng nói về cái xấu, nhưng thơ giúp con người tìm lại chính mình. Ở đây, thơ đóng vai trò kiến tạo con người và giúp họ sống tốt đẹp hơn, nhân văn hơn. Chúng ta không thể chỉ đánh giá thơ ở góc độ phản ánh mà phải nhìn thấy giá trị hiện thực của thơ ở tư duy, suy nghĩ của người nghệ sĩ về cuộc đời. Nghệ sĩ phải sống hết mình vì thơ, Chế Lan Văn đã nói: “Thi sĩ là kẻ say, kẻ mộng, tiên, kẻ si tình…”.
Có thể thấy vai trò của các nhà thơ là vô cùng quan trọng, nó quyết định giá trị của thơ ca đối với đời sống con người. Aragon sinh ra vì tình yêu: Pushkin khao khát một cuộc sống tình yêu cao đẹp và một xã hội công bằng, bình đẳng nên nhà thơ không thể tự nói qua vần điệu, nhịp điệu… mà phải nói từ cuộc sống đời thường. Sự vĩ đại của những giấc mơ của con người. Chú He không coi mình là một nghệ sĩ, nhưng những tác phẩm của chú chứng tỏ rằng chú là một nghệ sĩ vĩ đại. Khi chú tôi làm bài thơ “Cảnh Chiều” thì không thể nói chú không phải là nghệ sĩ, bài thơ này cho chúng ta biết chú rất có nghệ thuật. Vì nhà thơ không thể dùng ngôn ngữ thô tục khi viết về cái đẹp cần được bất tử và biết đến. Sáng tác nhạc rất cần sự sống chân thành của người nghệ sĩ.
Thơ như dòng sông thời đại, đập liên hồi vào bờ, nhưng thơ làm cho con người muôn màu muôn vẻ, còn sóng làm cho bãi đá ngầm bớt đi. Hai sự kiện này vừa mâu thuẫn vừa giống nhau: thơ không bào mòn con người mà nâng cao con người.Thơ thực sự là “người mẹ”, “sự độ lượng” – nghĩa là chúng ta nói về
Giá trị đích thực của thơ, bởi chỉ có thơ và nghệ thuật đích thực mới là “độ lượng”, “bao dung” và “nhân ái” với mọi người. Thơ cho phép các nghệ sĩ sống cuộc sống đích thực.
Thơ cũng như truyện cổ tích, phải xuất phát từ cuộc sống thì thơ mới thực sự “hào phóng”. Thơ cần “độ lượng”, nhưng nghệ sĩ không được dùng cái “độ lượng” đó để nói về sự xấu xa, đê tiện không có giá trị tôn vinh. Nếu nhà thơ nào không tuân theo nguyên tắc này thì tác phẩm của họ bị chối bỏ, bị lên án, có lẽ nó “chỉ tồn tại ở một người, ở một thời điểm may mắn” (Diệp Tiên).
Như một nhà văn nào đó đã nói: Thơ giúp người ta nhìn lại mình: ta hãy quay lại xem ta tệ đến mức nào. Thơ không chỉ đóng vai trò cải tạo con người mà còn tạo ra con người nghệ thuật mới để người nghệ sĩ soi mình, sáng tạo theo yêu cầu của thời đại và của độc giả. Phải chăng hôm nay đất nước thanh bình, dân an, người dân cần “ngủ” một giấc? Hạnh phúc hơn hiện tại? Thật là thi vị khi giải quyết vấn đề này – cuộc sống không đơn giản như chúng ta tưởng tượng, đó là tiếng kêu than, rên rỉ của những người nghèo quanh ta, con người không thể sống buông thả và hưởng thụ những gì mình đã có. Khối Rubik của Thanh Thảo đã làm đau lòng chúng ta và góp phần thức tỉnh những giá trị nhân văn. Đây là quyền sống và quyền hạnh phúc của con người.
Quan điểm của Hoài Thanh về bài thơ “ra đời trong niềm vui nỗi buồn của con người” là đúng đắn, khiến người ta yêu hơn cuộc đời này, chính bài thơ đầy cảm xúc và tình yêu thương vô bờ bến này đã khiến người ta hiểu được giá trị sâu sắc của “Truyện Kiều”. “.xã
Hiện hội không có Truyện Kiều thứ hai. Tiếng khóc than, nỗi lòng của nàng Kiều – đó là cảm xúc của Nguyễn Du đối với thời đại của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Nhận thức của con người đã được phong phú và nâng cao nhờ thơ ca. Những gì Nguyễn Du mắt thấy tai nghe dù “đau lòng” nhưng vẫn là đòn bẩy giúp người ta hiểu đúng hơn về xã hội hôm qua và nhìn nhận bản thân mình một cách chân thực hơn trong xã hội hôm nay.
“Thơ là một điểm dừng chân cũng như là một cuộc hành trình.”
Thơ là lời ru ngây ngất bên giường con thơ
Như giấc mộng xuân, như khát khao chiến thắng”
(Raxun Gamzatốp)
Cuộc sống là vô hạn, và sức biểu đạt của thơ ca cũng vậy. Nhà thơ tìm thấy tiếng nói của tâm hồn mình trong thơ, bởi như nhà văn Gorky đã nói: “Thơ là tâm hồn”. Về vấn đề này, chúng ta nên đánh giá cao vai trò của người tiếp nhận. Người đọc phải là “đối tác sáng tạo” (Gorky) và phải biết chọn đúng con đường thi ca. Chúng ta không thể đọc những bài thơ tình cảm ủy mị rồi chán đời mà phải sống tốt hơn, sống đúng đắn, sống có chính nghĩa. Khi đó bạn là “bạn” của thơ, bởi bạn đã góp phần làm đẹp thơ, làm đẹp đời.
Thơ là cả một thế giới tinh thần mà ở đó người ta cần chiêm nghiệm rằng cái thiện ngự trị và cái ác diệt vong. Thơ là một món quà vô giá của một nghệ sĩ cho độc giả của mình. Thơ hay sẽ cùng nhân loại “đến tận cùng thế giới”. Nhà thơ Ganjatop đã từng viết trong một bài thơ: Hãy dưỡng già, thơ sẽ là con gái – lúc chết, ký ức về thơ vẫn được lưu giữ. Khi còn sống, các nhà thơ làm đẹp cho mọi người và làm cho bạn nhận thức được cuộc sống, nhưng thơ là tất cả – ngay cả khi các nhà thơ đã chết, thơ của họ vẫn là bạn của con người. Hoài Thanh nhận xét thơ ở phương diện lý trí và tình cảm của con người.
Thơ giúp ta không dửng dưng trước số phận con người. Trong bài hát Đêm đại dương, Huygo bày tỏ tình cảm của mình đối với những người thủy thủ đã chết dưới đáy đại dương. Số phận của những con người ấy cần sự cộng hưởng, đồng cảm của những người cùng chí hướng, cũng cần tiếng nói làm bằng thơ để gửi gắm đến trái tim của muôn vạn tạo vật. Đến với thơ như bạn đang ở ngoài đời, không phải khi trái tim khô khan và không còn tâm hồn. Thơ chỉ là bạn khi tâm hồn bạn muốn cao thượng và muốn một cuộc sống tốt đẹp, thay vì biến cuộc đời này trở nên vô nghĩa bằng sự vận động của thơ ca.
Thơ thực sự là một lời kêu gọi khẩn thiết để sống đàng hoàng – đây chính là tác dụng to lớn của “sự hào phóng và mãnh liệt” mà thơ ca mang lại cho con người. Hoài Thanh nói về mối quan hệ giữa con người và thơ qua nhận xét của ông, thơ phải phù hợp với tâm hồn thi nhân. Nếu có nghệ thuật trong thơ thì nhà thơ là người thực sự tô điểm cho vẻ đẹp cuộc sống, mở rộng tầm nhìn và làm phong phú tâm hồn. Suy nghĩ về thơ xưa không phải để phủ nhận thơ hay mà để khẳng định thơ ngày nay và làm phong phú thêm thơ.
“Văn là cuộc đời. Không có cuộc đời thì văn chương chẳng có tác dụng gì. Cuộc đời là điểm xuất phát của văn học và là đích đến của văn học.” (tới Hữu). Dù là gì đi nữa, nhà thơ có nhiệm vụ quan trọng là thể hiện cái tốt. Kinh Thánh nói: “Mọi linh hồn đều có thể đến với Đức Chúa Trời bằng nhiều cách”. Các nhà thơ hãy tìm cho mình con đường đi đúng cho thơ và cho đời. Nếu một con gấu ăn mật ngọt và mật của nó lại đắng, thì thơ phải là một quá trình ngược lại: dằn vặt, thống khổ, đau đớn đôi khi kêu khóc thảm thiết.