Giá trị nhân đạo và những đặc sắc nghệ thuật nổi bậc Vợ chồng A Phủ

vo-chong-a-phu-gia-tri-nhan-dao-va-nhung-dac-sac-nghe-thuat-noi-bac

“Vợ chồng A Phủ” – Giá trị nhân đạo và những đặc sắc nghệ thuật nổi bậc

Truyện “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về cuộc sống đầy đau đớn, tủi nhục của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra ở Hồng Ngài đến khi Mị và A Phủ trốn thoát đến Phiềng Sa tham gia cách mạng.Tác phẩm thám đẫm tinh thần nhân đạo cao cả.

1. Giá trị nhân đạo cao cả:

Trước hết, giá trị nhân đạo của tác phẩm toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Hai sự sống trẻ trung bị đày đọa khủng khiếp trong tù ngục nhà thống lí Pá Tra đang bị chết dần, chết mòn vì khổ đau. Mị – cô gái trẻ đẹp, mơn mởn như bông hoa rừng nhưng bị bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý.

Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi. Mị sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Khi thì tưởng “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Bởi Mị sống mà hầu như mọi quyền lợi bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng Mị lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ để “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay. Cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…lúc nào cũng cài một bó đay ở trong tay để tước thành sợi. Suốt năm, suốt đời như thế”.

Bị bóc lột sức lao động đã đành, Mị lại còn bị tước đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị thần quyền áp chế. Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Đó là chốn địa ngục trần gian mà tên chồng A Sử đã trói buộc Mị vào đó, vùi dập tuổi xuân của Mị ở đó.

Vợ chồng A Phủ là tiếng nói phê phán, lên án, đả kích, tố cáo gay gắt, quyết liệt thế lực phong kiến miền núi bất nhân, tàn bạo đã chà đạp lên quyền làm người, quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Qua sự miêu tả, Hoài đã giúp người đọc hình dung được sự tàn ác, dã man, bản chất bóc lột của bọn thực dân phong kiến khi miêu tả xác thực và sinh động cuộc sống của cha con thống lí. Chúng đã lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để nô lệ hóa con người mà Mị và A Phủ chính là nạn nhân của chúng. Mị và A Phủ từ là những đóa ban rừng mơn mởn, yêu tự do, giàu tài năng nhưng vì món nợ mà họ đã trở thành những kẻ nô lệ suốt đời bị đối xử như con vật. Nợ là sợi dây trói buộc thể xác của Mị và A Phủ vào nhà thống lý nhưng thần quyền mới là sợi dây trói oan nghiệt nhất đã trói buộc tinh thần Mị và A Phủ vào nhà thống lý. Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt về ý thức phản kháng, trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa.

Không chỉ vậy, chúng còn dùng cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn để thỏa mãn sự độc ác. Mị bị bóc lột lao động tàn tệ chỉ biết chúi đầu vào công việc cả đêm cả ngày “suốt năm, suốt đời như thế”. Bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân chỉ vì Mị muốn đi chơi. A Phủ thì quanh năm chỉ rong ruổi ngoài bìa rừng chăn bò chăn ngựa đến nỗi quên cả việc về thăm làng cũ. Bị trói đứng vào cột chờ chết, thế mạng mình cho mạng của con bò. Qua những số phận ấy, ngòi bút Tô Hoài đã vạch trần bộ mặt tàn bạo của cha con nhà thống lý. Mang đến cho người đọc “tập hồ sơ tội ác” về tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi ở Tây Bắc trước khi có cách mạng về.

Vợ chồng A Phủ là tiếng nói trân trọng, sự nâng niu của nhà văn trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ. Nhà văn đã có những phát hiện phát hiện mới mẻ và ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây Bắc. Đối với đời sống con người, nhà văn đã có cái nhìn đầy trìu mến, yêu thương khi viết về đồng bào các dân tộc miền núi. Những chàng trai cô gái Mèo của ông là những người rất đẹp. Tuy nghèo khổ nhưng họ là những người đẹp người đẹp nết, dũng cảm, yêu đời, yêu lao động, khỏe mạnh. Có thể dễ thấy điều này qua những từ ngữ đầy ưu ái Tô Hoài dành cho Mị và A Phủ.

Nhà văn phát hiện và nâng niu, trân trọng và ưu ái miêu tả nhiều hơn vẻ đẹp của nhân vật Mị. Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng “Mị thổi sáo giỏi”, “Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”, “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị là người con hiếu thảo. Vì khoản nợ của cha mẹ, Mị chấp nhận về nhà thống lí làm dâu trả nợ. Nàng sống cam khổ, hi sinh cuộc đời vì chữ hiếu. Còn A Phủ là chàng trai được nhiều người con gái ao ước: “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa…”, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. A Phủ nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. Có thể nói, Mị và A Phủ là điển hình cho tuổi trẻ miền núi, vô cùng đẹp, vô cùng mạnh mẽ.

Tham Khảo Thêm:  Suy nghĩ về hiện tượng học tủ, học vẹt của học sinh ngày nay

Không dừng lại ở những đặc điểm bên ngoài, nhà văn tìm thấy ở họ những phẩm chất tốt đẹp. Mị thà phải lao động vất vả hơn làm con dâu nhà giàu. Lời cầu xin cha đẫm đầy nước mắt nhưng số phận đã an bài, nàng đành cam nhận. A Phủ dám đánh lại con nhà giàu để bênh vực cho lẽ phải, không hề khóc lóc van xin khi bị cha con thống lí đánh đập tàn nhẫn. A Phủ dám đòi đem súng đi bắn hổ, làm việc rất giỏi. A Phủ vẫn là con người thực sự. Bên ngoài cái xác không hồn khô cứng của Mị, Tô Hoài nhận thấy tiền tàng một sự phản kháng, một sức mạnh kì diệu, một ngọn lửa tự do vẫn còn âm ỉ.

Và hơn thế nữa, nhà văn đã chỉ ra cho họ một con đường sống, một lối thoát đến với tự do. Sự yêu thương cưu mang lẫn nhau giữa những người cùng khổ là biểu hiện của lòng ham sống mãnh liệt vốn từ lâu im lìm trong con người nhưng không bao giờ mất đi, chỉ cần có cơ hội là nó bùng phát. Mị vượt qua nỗi sợ hãi để cứu A Phủ và cả hai đã cùng chạy trốn, cùng nương tựa nhau mà sống: A Phủ nói: “Đi với tôi”. “Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống núi”. Sức mạnh ở những con người ấy, nếu biết giác ngộ, biết tổ chức lại thì nó sẽ tạo nên sức mạnh diệu kì làm kẻ thù khiếp sợ. Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, Tô Hoài đã đặt trọn niềm tin vào khả năng cách mạng của Mị và A Phủ.

Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.

2. Giá trị nghệ thuật:

Xét về hình thức, Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đạt tới trình độ nghệ thuật điêu luyện. Tô Hoài đã dành khá nhiều tâm huyết trong việc miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật. Đặt nhân vật trong những hoàn cảnh thích hợp, tác giả đã miêu tả được bước chuyển sinh động của tâm lí nhân vật trong sự phát triển từ tiệm tiến đến đột biến, bất ngờ hợp lí và hấp dẫn. Chính vì thế, nhân vật trở nên sinh động, có cá tính đậm nét. Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.

Với nhân vật Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…. Từ chỗ cúi đầu, buồn câm lặng đến chỗ Mị muốn đi chơi xuân. Từ thái độ thờ ơ, dửng dưng, vô cảm đến chỗ Mị biết cảm thương, quyết định cứu người cùng cảnh ngộ. Chi tiết Mị thấy những dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen của A Phủ là một trong những chi tiết rất đặc sắc, miêu tả được quá trình phát triển tâm lí trên của nhân vật Mị.

Khác với Mị, nhân vật A Phủ được tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn nhằm làm nổi bật về tính cách của một chàng trai gan góc, giàu tinh thần phản kháng. Từ chỗ manh động, hiểu lầm… anh đã đi tới đấu tranh một cách tự giác và kiên quyết.

Nhà văn cũng không quên miêu tả cảnh vật, tái tạo không khí rừng núi vùng cao vừa thực vừa giàu chất thơ. Thiên nhiên và cuộc sống Tây Bắc hiện ra tươi đẹp, cuộc sống con người bình dị. Truyện diễn ra trong một khung cảnh đậm đà hương sắc Tây Bắc. Những trang viết về mùa xuân, về những đêm trai gái người dân tộc thiểu số người dân tộc thiểu số đi tìm bạn tình… là những trang vừa thực, vừa giàu chất thơ bay bổng. Chúng không chỉ dừng lại ở việc tả cảnh để xác định không gian truyện mà còn góp phần tích cực vào việc miêu tả tâm lí và tính cách, số phận nhân vật, đặc biệt là hai nhân vật Mị và A Phủ. Phong tục tập quán của người dân tộc miền núi hiện ra với những nét riêng từ cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, đến tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…hết sức sinh động ,đặc sắc.

Nhà văn tô Hoài có cách kể chuyện thật tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.

Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng Cách mạng soi đường đến một cuộc đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo lớn lao, tiến bộ của Vợ chồng A Phủ. Những giá trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước thử thách của thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.

Tham Khảo Thêm:  Phân tích bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều qua 8 câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Bài văn tham khảo:

Cảm nhận về nhân vật Mị

Mị – nhân vật trung tâm của câu chuyện “Vợ chồng A Phủ”. Mị là cô gái trẻ đẹp, con nhà lao động, có tấm lòng nhân hậu. Thế nhưng, số phận run rủi, nàng phải vào nhà Thống li PáTra làm vợ để trả món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ nàng. Lẽ ra là cuộc đời sẽ tốt đẹp nhưng số phận không an bài như thế, nơi đây Mị bước sang một trang đời đầy tăm tối, tất cả như xô dạt về hướng lụi tàn, không gì cứu vãn được. . Mị.

Trước hoàn cảnh, Mị trở nên câm nín vô hồn, vô cảm. Mị khóa chặt lòng mình: không giao tiếp, không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, Mị “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Ý nghĩa của cuộc sống chỉ còn lại đơn thuần là những ngày dài lê thê chưa chết. Cứ thế Mị giam cầm mình trong căn buồng tăm tối “kìn mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay ..” và chi tiết ấy lặp lại đến mấy lần trong tác phẩm. Để rồi từ ô cửa ấy, Mị nhìn ra bên ngoài và thấy cái màu trăng trắng không biết là sương hay nắng.

Mị mất cả ý niệm về không gian và thời gian, Mị không phân biệt được thời gian sáng và chiều, không biết mùa nào đã về, con chim nào đã bay qua dưới cửa sổ. Mị bị cuốn vào cái vòng xoáy công việc giặt đay, xe đay, bưng ngô và sau tết “lên núi hái thuốc phiện … đến mùa thì lên nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm như thế”. Ý thức làm người của Mị dần dần bị tê liệt. Độc ác hơn, gia cấp phong kiến ấy còn đánh đập, chà đạp lên nhân phẩm của Mị. Chúng dùng bóng ma thần quyền nhằm hù dọa, ức hiếp triệt tiêu cả niềm tin và sự phản kháng của Mị. Phần “Người” trong Mị cứ chết dần mòn theo ngày tháng, nhu cầu giao lưu với bên ngoài dường như bế tắc. Và Mị đã chọn cái chết như một con người còn hơn là sống như trâu ngựa. Nàng định dùng “nắm lá ngón” để kết liễu kiếp đọa đày của mình.

Thế nhưng, vì sợ liên lụy đến cha mẹ. nàng “ném nắm lá ngón xuống đất” để tiếp tục sống dù trong đọa đày tủi nhục. Mị giống như Thuý Kiều hai trăm năm trước, lựa chọn của Mị thực chất là bán mình cứu cha. Đó là sự phản kháng dù tiêu cực nhưng hết sức quyết liệt: lấy cái chết để phủ nhận cuộc sống làm dâu gạt nợ. Và rồi cơn gió lành đã đến và ngọn lửa ngọn lửa ham sống đã bùng lên lần thứ nhất trong câu chuyện này từ một “đêm tình mùa xuân”. Đêm tình mùa xuân ngân lên như một niềm thơ từ tiếng sáo dìu dặt gọi bạn tình nghe “thiết tha bồi hồi”, làm xao động trái tim và cõi lòng Mị. Vâng ! Mùa xuân tình yêu đã đến.

Tác động của nắng xuân, màu sắc biến ảo của hoa anh túc trên nương, của ánh trăng đêm hò hẹn, của tiếng khèn, tiếng sáo miên man gọi bạn tình, như nguồn nhiệt lượng thiêng liêng dội vào khoảng sâu thẳm tâm hồn Mị, sưởi ấm và làm tan chảy tảng băng lạnh lẽo trong lòng Mị. Cõi lòng Mị ấm dần lên, băng giá tan chảy và Mị hồi sinh. Những hạt mầm đầu tiên của cảm xúc bắt đầu nảy nở: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”.

Nhận thức và nhu cầu được sống chảy lai láng trong tâm hồn Mị và rồi vẻ đẹp sặc sỡ của “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá xoè ra như cánh bướm” trong các làng Mèo đỏ lọt vào mắt nàng. Ấn tượng về chiếc váy hoa đã đánh thức như cầu làm đẹp của người thiếu phụ có gương mặt buồn này. “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Đó là tiếng hát vang lên từ trong đáy sâu tâm hồn Mị – tiếng hát của thanh xuân mà không có một thế lực cường quyền, thần quyền nào có thể dập tắt được. Tiếng hát là sự kết tinh của những khát vọng cao đẹp nhất, có lẽ nhiều khi nó còn đẹp hơn chính cả con người? Nhu cầu giao tiếp, giao cảm và nhu cầu sống trở về với Mị.

Thực tại đắng cay như địa ngục trần gian nơi ô cửa sổ nhỏ trong nhà Thống lý Pá Tra với người chồng tồi tệ là A Sử; còn một thực tại khác êm ả như thiên đường tuổi trẻ dưới nắng xuân ngoài nương, dưới đêm trăng hò hẹn, dìu dặt, miên man trong tiếng sáo gọi bạn tình làm náo nức trái tim Mị. Quá khứ và thực tại đan chéo trong lòng, khiến nàng xúc động mạnh khiến nàng có ý tưởng kỳ lạ “Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. thế nhưng có lẽ không phải Mị đang uống rượu, mà đang uống những đắng cay của đời mình. Quá khứ êm đềm trỗi dậy như dòng suối miên man chảy vào miền ký ức ngọt ngào của thời thanh xuân” Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.

Tín hiệu cuộc sống, niềm yêu đời, say đời trở lại đã đưa Mị tìm lại được ý niệm về thời gian, Mị sống với thời gian quá khứ và từ đó nàng nhận ra thới gian, không gian thực tại. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Thế đấy, ngay lúc thèm sống nhất, Mị lại muốn chết ngay. Mị chọn khoảnh khắc hạnh phúc nhất để chết, vì chết lúc ấy người ta dễ mang theo hạnh phúc và dễ bỏ khổ đau lại phía sau. Nhưng “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ ngoài đường” đã thôi thúc Mị “đến góc nhà, xắn một miếng mỡ. bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”.

Tham Khảo Thêm:  Qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng hãy chứng minh: Tác phẩm chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại.

Người đọc đến chi tiết này đều xúc động vì căn buồng âm u, tăm tối lạnh lẽo bao nhiêu năm tháng giam hãm đời Mị bỗng chốc bừng sáng ánh đèn. Đóm sáng ấy thật ra là ánh lửa ấm áp được thắp lên từ “đêm tình mùa xuân”, được thắp lên từ cõi lòng tiềm tàng sức sống mãnh liệt của Mị. Hành động này thôi thúc hành động khác và Mị quyết định đi theo tiếng gọi của lòng mình: “Mị quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa sửa soạn đi chơi tết”.

Có thể nói hành động “sửa soạn” này như là một cuộc sửa soạn vượt ngục của một tù nhân không cam số kiếp tù đày. Thế nhưng ngọn lửa ham sống của Mị đã bị A Sử dập tắt một cách tàn bạo, Hắn thản nhiên lầm lì lấy dây, lấy thắt lưng của hắn và cả tóc Mị để trói Mị lại. Có lẽ A Sử đã hình dung được trong cái hành động muốn đi du xuân của Mị là cả một sự thách thức ghê gớm, môt sự bùng lên, một sự nổi loạn chống lại cái luật lệ hà khắc của gia đình hắn nói riêng và cả cái xã hội phong kiến miền cao nói chung. Mị đang bị trói và không hề phản ứng.

Tô Hoài thật tinh tế và sâu sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Vì lúc này, nhân vật Mị đang ngây ngất trong thiện đường tuổi trẻ của dư âm đêm tình xuân. Bởi thế sợi dây trói tàn khốc của cuộc đời thực, chưa thể làm kinh động giấc mơ êm đềm của kẻ mộng du tội nghiệp. Đến khi vùng bước đi, Mị mới cảm nhận sự đau nhức và Mị mới bị ném trả lại với sự thực đắng cay, để rồi sáng mai Mị lại trở về với kiếp con rùa lầm lũi trong xó cửa nhà Thống lí. Đó là sự tàn bạo của xã hội phong kiến vùng cao trước Cách mạng. Cho đến một ngày A Phủ xuất hiện trước mặt cũng với thân phận tôi mọi, A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, số phận lại vào nhà Thống lí Pá Tra và thân phận không hơn gì Mị. A Phủ để hổ vồ mất con bò và hậu quả hình phạt là bị trói đứng vào cây cột suốt mấy đêm liền, A Phủ xuất hiện trước mặt Mị với hình ảnh như thế.

Đồng cảnh ngộ, cũng là người đi ở gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra, A Phủ bị trói mấy đêm rồi, nhưng đêm nào cũng vậy, Mị đốt lửa sưởi, nhìn thấy A Phủ mà vẫn thản nhiên vô cảm: “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi, Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết còn ở với ngọn lửa”. Tâm hồn cô khép kín, dường như sức sống cứ mòn dần, cạn dần, nén lại và khô kiệt mất. Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ: “1 dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy đã làm rung chuyển cõi lòng tưởng như đã đóng băng từ lâu của Mị chợt bùng lên, vỡ ra. Mị nhớ lại và thương cho mình ” Mị cũng phải đứng thế kia, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Và ý thức phản kháng trong Mị trỗi dậy, vượt qua nỗi sợ hãi. Nàng muốn A Phủ phải được sống. Còn Mị nàng chấp nhận ở lại mà chết. Nỗi thương người dường như lớn hơn nỗi thương thân: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày mà rũ sương ở đây thôi … Người kia việc gì phải chết thế”.

Thế rồi, từ nhận thức biến thành hành động, Mị rón rén bước lại cắt dây trói cho A Phủ, hàng động ấy đã trở nên cái mốc quan trọng trong cuộc đời A Phủ và cũng chính cho Mị, “đi ngay ..” Chỉ hai tiếng khô khốc lạnh lùng ấy đã mở ra một chân trời rộng lớn cho hai người. :A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Lúc này, giữa ranh giới cái chết và sự sống, tự do và nô lệ, Mị cũng vụt chạy hổn hển gọi: “A Phủ cho tôi đi ..” Một tình yêu nảy nở từ sự hy sinh và một tình yêu đáp lại từ sự đồng điệu của tâm hồn, của khát vọng sống. Một cuộc giải phóng đời mình tuy là tự phát nhưng thật sự đã diễn ra. A Phủ chợt hiểu: “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”.

Và khúc hồi thanh của tình yêu vang lên: “Đi với tôi”, có thể nói Mị đã giải thoát cho A Phủ và tự giải phóng chính mình. Đó là sự vượt ngục tất yếu để tìm đến tự do, cũng chính là nét độc đáo của ngòi bút Tô Hoài: ngòi bút của chủ nghĩa nhân đạo, từ Mị ta đồng cảm, xót thương cho thân phận đau khổ của người phụ nữ nghèo miền núi, ta tin vào sức phản kháng, vào khả năng tự giải phóng để được tự do và hạnh phúc của họ.

Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức sống đó được bộc lộ ngày một mãnh mẽ và có ý nghĩa tích cực hơn. Ban đầu Mị định dùng lá ngón tự tử- sức phản kháng dù tiêu cực nhưng mạnh mẽ, lần thứ hai khi xuân về, nghe tiếng sáo vọng, Mị muốn đi chơi xuân- hành động phản kháng theo tiếng gọi của hạnh phúc. Và lần cắt dây trói, đi theo A Phủ là đỉnh điểm của sức phản kháng trong Mị, cô vượt qua cả nỗi sợ hãi vốn tồn tại trong mình từ rất lâu để tìm đến tự do.

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *