Làm rõ tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

lam-ro-tinh-than-nhan-dao-trong-truyen-kieu-cua-nguyen-du

Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

 “Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước
Lòng trinh không thẹn với Kim Lang
Đoạn trường tình mộng duyên đã đứt
Bạc mệnh đàn ngưng hậu vấn vương…”

(Phạm Quý Thích)

Thật vậy, mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người qua bao thế hệ: “Cảo thơm lần giở trước đèn…”. Ba nghìn hai trăm năm mươi bốn câu thơ Kiều dào dạt một tình thương mênh mông trước thân phận của con người bị áp bức, bị chà đạp trong xã hội cũ, thấm đẫm tinh thần nhân đạo cao cả.

Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều. Đó chính là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người, là thái độ đồng tình cho quyền tự do yêu đương, khát vọng công lý và tinh thần đấu tranh của những người bị áp bức.

Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều trước hết là tiếng nói ca ngợi những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người.

Nguyễn Du đã nhiều lần ngợi ca nhan sắc “hải đường mơn mởn cành tơ” của Thuý Kiều. Nàng là hiện thân của một người con gái xinh đẹp, kiều diễm đến tuyệt vời đến “nghiêng nước nghiêng thành”. Vẻ đẹp của Thúy Kiều tràn trề sức sống:

“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thăm, liễu hơn kém xanh.”

Vẻ đẹp của nàng thật có một không hai trên thế gian này. Thế nhưng ẩn giấu đằng sau những “làn thu thủy” trong trẻo và những “nét xuân sơn” tươi thắm của ngọn núi mùa xuân ấy là cả một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.”

Tài hoa của nàng không chỉ bộc lộ rực rỡ ở tài thi họa mà còn ở cung đàn có sức thuyết phục tuyệt đối. Cái thông minh và tài hoa ấy cũng chính là biểu hiện phong phú của một trái tim nồng nàn, sôi nổi, một tấm lòng giàu lòng vị tha. Cung đàn đầy cảm xúc của lần tình tự với Kim Trọng chính là nỗi sợ hãi của nàng Kiều thông minh linh cảm trước số phận của những người yếu thế mà cũng chính là tiếng lòng dám yêu đương sôi nổi của một cô gái sống cách đây hai trăm năm, khi mà quan hệ chân chính giữa nam nữ còn chịu nhiều ngăn cấm bởi muôn vàn luật lệ khắt khe của lễ giáo phong kiến.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng một thiên diễm tình giữa “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”: Thuý Kiều – Kim Trọng. Họ tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến để vươn lên tìm lấy hạnh phúc chân chính. Chỉ mới phút đầu gặp gỡ thôi, trái tim Kiều đã biết đập những nhịp tình yêu đầu đời, đã biết rung động, thổn thức trước hình ảnh một chàng trai. Đến nỗi sau lần gặp gỡ ấy, Kiều đã phải thốt lên:

“Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”

Từ khi gặp gỡ Kim Trọng, trái tim Kiều luôn khao khát yêu đương và mơ ước được cùng chàng kết mối tơ duyên, hưởng hạnh phúc suốt đời. Tình yêu ấy ngày càng sôi nổi, sâu đậm. Kiều cũng ngày càng dấn thêm nhiều bước đi táo bạo hơn nữa. Khi Kim Trọng tỏ tình với Kiều, nàng đã mạnh dạn nhận lời gắn bó. Khi có dịp thuận lợi thì cũng chính nàng là người đã chủ động “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang tình tự với người yêu… Những bước chân của Kiều như đi trên lễ giáo phong kiến nghiệt ngã “Nam nữ thọ thọ bất thân”. Đó là sức mạnh tình yêu tuổi trẻ.

Tình yêu tha thiết của Thuý Kiều đã được đáp lại cũng bởi một trái tim nồng cháy yêu thương nhưng cũng hết sức bồng bột là của Kim Trọng. Chàng đã bỏ cả một trách nhiệm “nấu sử sôi kinh” của chàng vì tương tư người đẹp:

“Phòng văn lạnh ngắt như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.”

Chẳng hề giấu giếm lòng mình trong buổi gặp gỡ nhân câu chuyện cành thoa, chàng cũng vượt qua quyền cha mẹ tự gắn bó với Kiều…

Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy cũng chính là một mối tình rất trong sáng, thủy chung. Kiều là một thiếu nữ rất một mực đoan trang, hiền thục, nàng yêu đương sôi nổi nhưng cũng biết kiềm chế cảm xúc để ngăn chặn những bước đi quá trớn không tốt cho tình yêu. Khi nghe Thuý Kiều đàn, Kim Trọng càng mê mẩn, say đắm nàng:

“Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.”

Bắt gặp điều đó, Kiều đã thẳng thắn nói với Kim Trọng:

“Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu giữ chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trong Bộc trên dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi.”

Câu nói của Kiều mang tính triết lí phong kiến nhưng trong lễ giáo phong kiến không phải điều nào cũng đáng lên án cả. Vẫn có một số quan niệm đã trở thành quan niệm đạo đức có nội dung nhân dân. Người phụ nữ Việt Nam là những con người ngay thẳng, trong sạch, biết giữ gìn phẩm giá của mình. Điều đó đã hình thành nên một nét truyền thống riêng đặc trưng cho phụ nữ Việt Nam nói riêng và phụ nữ Á Đông nói chung. Ngay cả chàng Kim Trọng kia, nếu như lúc trước chàng say đắm Kiều vì nhan sắc và tài năng của nàng thì sau câu nói của nàng, chàng lại càng thêm nể phục Kiều vì nhân cách phẩm giá tốt đẹp của nàng. Và đến Tam Hợp đạo cô, một nhà tu hành, cũng đã phải thừa nhận là tuy Kiều “mắc điều tình ái” nhưng nàng lại “khỏi điều tà dâm”. Phẩm chất ấy, đạo đức ấy đã khiến suốt mười lăm năm trời lưu lạc “hết nạn này, đến nạn kia”, lúc làm lẽ Thúc Sinh hay khi gặp người anh hùng Từ Hải, Kiều vẫn không bao giờ có thể quên đi mối tình đầu vô cùng đẹp đẽ của nàng…

Kiều cũng là một người con vô cùng chí hiếu. Khi gia đình gặp tai biến, tài sản bị bọn sai nha “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Cha thì bị tù tội, bị đánh đập vô cùng dã man. Làm sao Kiều có thể nhìn cha đau đớn! Và thế là Kiều đã quyết định hi sinh mối tình riêng để cứu cha và gia đình. Hành động chuộc mình cứu cha của Thuý Kiều thấm đượm tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm động:

“Hạt mưa sa nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”

Lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Bị Mã Giám Sinh làm nhục, bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều vẫn như quên đi những nỗi đau của riêng mình để lo cho mẹ cha. Đã bán mình chuộc cha, làm tròn chữ hiếu ấy thế mà Kiều vẫn còn day dứt xót xa vì không được phụng dưỡng, được chăm sóc cha mẹ. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau không ai chăm sóc. Giờ này ai đang lo “quạt nồng ấm lạnh”. Giọng thơ như chùng xuống trong niềm thương nhớ đến xót xa của Kiều. Kiều hiếu thảo đến thế thì còn gì là hơn! Chỉ mới xa gia đình đây thôi mà nàng đã tưởng tượng cha mẹ già yếu vì thương nhớ mình…

Trong Truyện Kiều tình tiết “trao duyên” cũng là một nét đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai” Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thuý Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:

Tham Khảo Thêm:  Ôn tập luyện thi văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh" (Lê Anh Trà)

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”

Thuý Vân nên mối tơ duyên với Kim Trọng, Kiều cũng phần nào bớt đi cảm giác có lỗi trong sự bội ước. Thế nhưng trước ngày đầu tan vỡ ấy Kiều tránh sao khỏi đau đớn xé ruột:

“Bây giờ trâm gẫy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.”

Làm sao Kiều có thể quên được mối tình đầu ngây thơ trong trắng ấy bởi lẽ:

“Ôi cái buổi ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.”

(Thế Lữ)

Kiều là một cô gái rất mực chung thuỷ sắt son. Khi cùng Mã Giám Sinh lên kiệu hoa về Lâm Tri nàng thốt lên:

“Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang,
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”

Hay những khi còn sống trong vũng bùn cuộc đời xấu xa ô nhục, giữa cảnh “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh / Giật mình, mình lại thương mình xót xa”, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng:

“Khi về hỏi Liễu Chương Đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.”

Lời thơ là lời độc thoại, Kiều như tự nói với chính lòng mình, như tự nhắn nhủ về tấm lòng chung thuỷ, sắt son. Đó là một mối tình vượt không gian, thời gian.

Tất cả những điều đó đều nói lên rằng chính cái thế lực phong kiến đen tối ấy đã làm tan nát hạnh phúc lứa đôi Thuý Kiều – Kim Trọng nhưng không thể tiêu diệt được tình yêu bất diệt trong những trái tim chung thủy ấy. Kim Trọng trong suốt mười lăm năm cũng không lúc nào ngưng tìm Kiều. Chàng đã vượt qua cái khuôn sáo của người con trai trong xã hội phong kiến, lý tưởng tôn thờ của Kim Trọng không phải là đạo “Quân – thần”, con đường chàng đi không phải là hăm hở công danh mà là một chữ “tình” đầy nhân bản:

“Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử hoạ là thấy nhau.”

Thật đúng như Chu Mạnh Trinh đã từng viết: “Tấm lòng này như tuyết như băng, mối sầu nọ qua ngày qua tháng… Ngọc kia không vết, giá liên thanh không vết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng vẫn còn vơ vẩn”.

Nguyễn Du đã xây dựng một thiên diễm tình tuyệt mỹ Kim – Kiều. Trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thương cảm sâu sắc cho mối tình đầu tan vỡ ấy chính vì thế nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật độc đáo, cực kỳ tinh tế trong bút pháp điêu luyện. Thuý Kiều và Kim Trọng là hai nhân vật đã chống đối lễ giáo phong kiến bằng mối tình đẹp đẽ của họ. Mối tình ấy, những đạo đức tuyệt vời ấy cũng chính là những ước mơ giải phóng, là phẩm chất cao đẹp của nhân dân lao động.

Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về tự do công lý của con người bị áp bức dưới chế độ cũ.

Từ Hải ân nhân của Thuý Kiều là một hình tượng sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường: “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Người anh hùng văn võ song toàn ấy có lý tưởng sống khác hẳn với bọn “cá chậu, chim lồng” quen “vào luồn ra cúi” để tranh nhau hai chữ công hầu. Ở Từ Hải, đó chính là một chí khí ngang tàng đội trời đạp đất ở đời “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi’. Chàng thiết tha với một lý tưởng:

“Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”

Trong xã hội phong kiến ý vua là ý trời, mọi thần dân chỉ có thể cúi rạp mình xuống mà thôi, thế nhưng ở đây, thái độ Từ Hải về nhiều mặt đều mang ý nghĩa phản kháng mạnh mẽ chế độ phong kiến. Nó biểu hiện sự quật khởi của một thời đại khi hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng lên dữ dội thì cũng là lúc ý chí chống đối lại tôn ti trật tự khắc nghiệt kia nảy nở trong đầu óc những người bị áp bức. Không những thế, Từ Hải còn có nhiều đức tính khác đối lập với bản chất thường thấy ở bọn người “mũ cao áo rộng” của xã hội phong kiến. Chàng không coi Kiều thuộc vào loại “xướng ca vô loài” nghĩa là chàng không nhìn Kiều bằng con mắt khinh bỉ vốn có của bọn phong kiến mà ngược lại chàng thấu hiểu tâm tư đau đớn của Kiều.

Cũng như Kim Trọng sau này, Từ Hải biết rõ giá trị phẩm chất cao đẹp của Kiều. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên Từ Hải đã bắt gặp những điều ấy, chính vì thế mà Từ Hải luôn luôn xem Kiều là người tri kỷ của mình, đối xử với Kiều bằng một mối tình trước sau như một, khi “vinh hoa” cũng như lúc “phong trần”. Ngoài ra, Từ Hải còn là một con người rất tự tin, thẳng thắn. Rõ ràng những phẩm chất tốt đẹp ấy không thuộc về giai cấp phong kiến.

Từ Hải cũng là ân nhân lớn nhất của Kiều. Con người duy nhất có khả năng đưa Kiều từ thân phận một cô gái thanh lâu bị cuộc đời rẻ rúng lên địa vị một quý phu nhân ngồi ở ghế quan tòa để “báo ân báo oán” chỉ có thể là Từ Hải. Những người thương yêu Kiều thì còn có nhiều người khác nhưng chỉ có Từ Hải mới có đủ sức mạnh và tài năng để rửa sạch oan khiên, giải thoát Kiều ra khỏi cuộc sống bùn nhơ của nàng. Thật vậy, đã có lần Từ Hải nói lên cái lý tưởng, khát vọng của mình là chiến đấu, bênh vực cho những kẻ bị áp bức và chống lại những điều oan trái bất công:

“Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.”

Lí tưởng tự do và công lí ấy đã phản ánh phần nào nguyện vọng và tinh thần đấu tranh của con người bị áp bức trong thế kỉ được mệnh danh là thế kỉ nông dân khởi nghĩa này. Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân vật toát ra từ hình tượng mà tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của cuộc đời nàng Kiều vậy. Tuy có ngắn ngủi thật nhưng vẫn ngời sáng hy vọng và niềm tin.

Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi trong trái tim Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót xa sâu sắc. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã ê chề “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Gặp được Từ Hải, hạnh phúc chợt đến rồi lại chợt đi khi Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến bị giết chết giữa loạn quân. Kiều phải hầu rượu trong bữa tiệc quan, bị ép gã cho viên thổ quan… Uất ức quá, Kiều phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nguyễn Du đã phải xót thương kêu lên:

“Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!…”

Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc đến não lòng. Từng từ, từng chữ tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo của tác giả khóc thương cho số đoạn trường.

Đọc Truyện Kiều ta không sao quên số phận đau thương của những con người tài sắc mà oan nghiệt thay cứ phải trầm luân trong số kiếp đoạn trường. Những mảng đời đầy bi kịch của Mã Kiều, Đạm Tiên… cứ xao động lòng người. Vâng chính họ là nạn nhân của xã hội tàn ác bất nhân:

Tham Khảo Thêm:  Cảm nhận hình tượng người nghệ sĩ chân chính Lorca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo

“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”

Oan nghiệt quá! Đau đớn quá! Số phận của con người sao mà thảm đạm thế! Trước ngôi mộ của người kỹ nữ đáng thương ấy Kiều đã khóc thương tha thiết cho thân phận Đạm Tiên. Kiều khóc cho Đạm Tiên hay chính là Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập tận đáy xã hội!

“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

Chính thế lực đồng tiền đã chà đạp lên nhân phẩm, ước mơ, hạnh phúc con người.

Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng xuyên suốt tác phẩm, chúng ta càng thêm tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu tình yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam.

Thật vậy, Truyện Kiều của Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo sẽ mãi mãi là tiếng thương muôn đời

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)


Tham khảo:

“Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”

(Bài ca mùa xuân 1961 – Tố Hữu)

Có thể nói mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người qua bao thế hệ: “Cảo thơm lần giở trước đèn…”. Lật giở từng trang văn Nguyễn Du, ta thấy tinh thần nhân đạo được phổ vào văn chương nghệ thuật như suối nguồn dạt dào tuôn chảy, như dòng sông tưới tắm tâm hồn để cho từng dòng thơ câu chữ ấy chở nặng những hạt phù sa đổ vào dòng sông nhân bản mênh mông vô tận.

Xây dựng hình tượng và số phận nàng Kiều, dường như Nguyễn Du đang nói thay lòng mình, thể hiện khát vọng công bằng cho nhân dân xã hội, cho những số phận tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội phong kiến xưa.

Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ “Truyện Kiều”.

Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là lòng thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến…

Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, không những thế phải đồng cảm xót thương những số phận bị chà đạp, lên án tố cáo những thế lực thù địch, đồng thời phải biết đồng tình với khát vọng và ước mơ chính đáng của con người. Nguyễn Du yêu thương con người đến tận cùng, vì vậy các tác phẩm của ông cũng nhân đạo đến tận cùng. Cảm thương cho những kiếp hồng nhan mà đa truân, tài tử mà đa cùng không phải là cảm hứng mới mẻ trong văn học, nhưng phải đến Nguyễn Du, người đọc mới thực sự đau lòng vì “những điều trông thấy” bởi Nguyễn Du viết về nỗi đau của người khác như nỗi đau của chính mình.

Sắc đẹp khuynh thành và tài năng hiếm có của Thúy Kiều đã được Nguyễn Du đặc tả trong hai câu thơ:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

Vẻ đẹp của nàng thật có một không hai trên thế gian này. Thế nhưng ẩn giấu đằng sau những “làn thu thủy” trong trẻo và những “nét xuân sơn” tươi thắm của ngọn núi mùa xuân ấy là cả một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.”

Tài hoa của nàng không chỉ bộc lộ rực rỡ ở tài thi họa mà còn ở cung đàn có sức thuyết phục tuyệt đối. Cái thông minh và tài hoa ấy cũng chính là biểu hiện phong phú của một trái tim nồng nàn, sôi nổi, một tấm lòng giàu lòng vị tha. Cung đàn đầy cảm xúc của lần tình tự với Kim Trọng chính là nỗi sợ hãi của nàng Kiều thông minh linh cảm trước số phận của những người yếu thế mà cũng chính là tiếng lòng dám yêu đương sôi nổi của một cô gái sống cách đây hai trăm năm, khi mà quan hệ chân chính giữa nam nữ còn chịu nhiều ngăn cấm bởi muôn vàn luật lệ khắt khe của lễ giáo phong kiến.

Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy cũng chính là một mối tình rất trong sáng, thủy chung. Kiều là một thiếu nữ rất một mực đoan trang, hiền thục, nàng yêu đương sôi nổi nhưng cũng biết kiềm chế cảm xúc để ngăn chặn những bước đi quá trớn không tốt cho tình yêu. Khi nghe Thuý Kiều đàn, Kim Trọng càng mê mẩn, say đắm nàng:

“Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.”

Còn gì đau xót hơn khi mối tình Kim – Kiều vừa chớm nở đã li tan. Lời thề với Kim Trọng vừa trao thì Kiều lại phải bán mình vì chữ hiếu. Trong Truyện Kiều tình tiết “trao duyên” cũng là một nét đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “hiếu tình khôn lẽ hai đường vẹn hai” Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thuý Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”

Thuý Vân nên mối tơ duyên với Kim Trọng, Kiều cũng phần nào bớt đi cảm giác có lỗi trong sự bội ước. Thế nhưng trước ngày đầu tan vỡ ấy Kiều tránh sao khỏi đau đớn xé ruột:

“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.”

Làm sao Kiều có thể quên được mối tình đầu ngây thơ trong trắng ấy bởi lẽ:

“Ôi cái buổi ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.”

(Thế Lữ)

Và, khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, bị Tú Bà “khóa xuân”, trong cái nỗi buồn mênh mang vô tận, không thể gì làm vơi bớt, không có ai để sẻ chia – nỗi buồn của một con người hoàn toàn cô đơn giữa một khung cảnh cô đơn, vắng lặng; Kiều chỉ còn biết nhớ về người thân. Thật đúng như Chu Mạnh Trinh đã từng viết: “Tấm lòng này như tuyết như băng, mối sầu nọ qua ngày qua tháng… Ngọc kia không vết, giá liên thanh không vết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng vẫn còn vơ vẩn”. Nguyễn Du đã xây dựng một thiên diễm tình tuyệt mỹ Kim – Kiều. Trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thương cảm sâu sắc cho mối tình đầu tan vỡ ấy chính vì thế nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật độc đáo, cực kỳ tinh tế trong bút pháp điêu luyện. Nhà thơ đã đảo tình lẫn hiếu, trái với trật tự cương thường của đạo lý phong kiến khi miêu tả Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau.

Nếu trước kia, Nguyễn Du đã không tiếc lời ngợi ca thiên diễm tình tuyệt đẹp vượt lễ giáo phong kiến thì giờ đây, khi mối tình đầu trong sáng ấy “trâm gãy bình tan”; chính ông lại đồng cảm hết sức với tâm sự của người con gái đang yêu buộc phải xa cách người yêu. Nguyễn Du thật thấu hiểu nhân tình!

Tham Khảo Thêm:  Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm giải thoát cho A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài

Nỗi nhớ người thân cũng không làm Kiều khuây khỏa nỗi buồn rợn ngợp. Buồn mà trông ra cảnh vật:

Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng quanh quanh ghế ngồi

Tám câu thơ dựng lên bốn bức tranh buồn được bắt đầu bằng hai chữ “buồn trông”. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cái nhìn hay đúng hơn, chỉ có tâm trạng. Tâm trạng của Kiều mà cũng là tâm trạng của Nguyễn Du. Lòng nhà thơ tưởng như cũng hòa vào với lòng nhân vật, cùng đồng cảm, buồn thương, đau xót với nhân vật.

Lòng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều trăm lần đứt đoạn, ngàn lần thấu cảm, thấy rõ trong từng câu thơ nghiến nát:

“Dở dang nào có hay gì
Đã tu – tu trót – qua thì – thì thôi”

Về Vấn đề Tố như đặt ra, Xuân Diệu nói: “Đặt ra một cách ghê gớm như lửa châm nhà đã cháy, như chuông treo sợi chỉ mành sắp đứt, như thòng lòng đã giết vào cổ người”. Truyện Kiều không phải là một bài ca hân hoan về giá trị con người mà trở thành “một câu chuyện thê thảm về vận mệnh con người trong xã hội cũ.”

Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi trong trái tim Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót xa sâu sắc. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã ê chề “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Gặp được Từ Hải, hạnh phúc chợt đến rồi lại chợt đi khi Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến bị giết chết giữa loạn quân. Kiều phải hầu rượu trong bữa tiệc quan, bị ép gả cho viên thổ quan… Uất ức quá, Kiều phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nguyễn Du đã phải xót thương kêu lên:

“Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!…”

Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc đến não lòng. Từng từ, từng chữ tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo của tác giả khóc thương cho số đoạn trường.

Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về tự do công lý của con người bị áp bức dưới chế độ cũ.

Từ Hải ân nhân của Thuý Kiều là một hình tượng sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường: “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Người anh hùng văn võ song toàn ấy có lý tưởng sống khác hẳn với bọn “cá chậu, chim lồng” quen “vào luồn ra cúi” để tranh nhau hai chữ công hầu. Ở Từ Hải, đó chính là một chí khí ngang tàng đội trời đạp đất ở đời “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi’. Chàng thiết tha với một lý tưởng:

“Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”

Trong xã hội phong kiến ý vua là ý trời, mọi thần dân chỉ có thể cúi rạp mình xuống mà thôi, thế nhưng ở đây, thái độ Từ Hải về nhiều mặt đều mang ý nghĩa phản kháng mạnh mẽ chế độ phong kiến. Nó biểu hiện sự quật khởi của một thời đại khi hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng lên dữ dội thì cũng là lúc ý chí chống đối lại tôn ti trật tự khắc nghiệt kia nảy nở trong đầu óc những người bị áp bức. Cũng như Kim Trọng sau này, Từ Hải biết rõ giá trị phẩm chất cao đẹp của Kiều. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên Từ Hải đã bắt gặp những điều ấy, chính vì thế mà Từ Hải luôn luôn xem Kiều là người tri kỷ của mình, đối xử với Kiều bằng một mối tình trước sau như một, khi “vinh hoa” cũng như lúc “phong trần”. Ngoài ra, Từ Hải còn là một con người rất tự tin, thẳng thắn.

Đọc những trang viết của Nguyễn Du, chúng ta thấy tình yêu thương con người, trăn trở với số phận từng con người, nhất là những người đang đau khổ, để hướng ngòi bút của mình vào đó. Nhà thơ tự gọi mình bằng tên chữ “Tố Như” không phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một tấm lòng tha thiết với cuộc đời. Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận: “… Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột… Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”. Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn. Câu thơ còn giống như tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc người xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại 1 bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những người tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của một xã hội rẻ rúng tài năng:

“Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương”.

Chủ đề liên quan:

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *