Qua các nhân vật trong Vợ nhặt, hãy chứng minh: Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống

vo-nhat-nhung-dân-doi-ho-noi-cai-che-man-đoán-song-song

Qua các nhân vật trong tác phẩm “Tìm vợ”, chứng tỏ rằng: “Kẻ đói không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến sự sống”

Kim Lan là nhà văn giỏi viết về nông thôn và cuộc sống nông thôn, viết truyện ngắn cũng hay.câu chuyện “Vợ đã tìm thấy nó” Tiểu thuyết Đời sống ở quê viết sau Cách mạng tháng Tám. Đến năm 1954, tác giả dựa vào các phần của cốt truyện cũ để hoàn thành. Tác phẩm kể về tình huống chọn vợ có một không hai của anh Đồng, đồng thời thể hiện niềm tin vững chắc của anh vào những phẩm chất tốt đẹp của bao người dân thường giữa nạn đói thảm khốc. Tác phẩm này khẳng định một điều: “Những người đói không nghĩ về cái chết, mà về cuộc sống.”

Chúng ta có thể thấy sự lạc quan của mọi người trong lời nói của Jinlan, đó là cốt lõi của mong muốn mạnh mẽ của mọi người về một cuộc sống tốt đẹp hơn trong mọi tình huống, ngay cả khi họ sắp chết và chết đói.

chọn Là hành động nhặt một vật bị đánh rơi một cách tự nhiên, không cố ý. Vợ là người bạn đời và là người quyết định một người có hạnh phúc hay không trong cuộc hôn nhân trọn đời. Vợ nhặt nghĩa là trong cơn đói, giá trị con người rẻ như hàng, nằm rải rác bên đường, tùy ý nhặt. Những chi tiết quý giá tố cáo tội ác man rợ của thực dân Pháp, phát xít Nhật gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Trong nạn đói lớn đó, Tràng tuy không đủ nuôi sống bản thân nhưng anh vẫn sẵn sàng đón cô gái về nhà nuôi dưỡng. Nhà văn phát hiện ra lòng nhân hậu, nghị lực sống mãnh liệt và khát khao yêu thương của những người lao động nghèo khổ. Khung cảnh nạn đói kinh hoàng được Kim Ran dựng nên từ những chi tiết đắt giá. Lần nào cũng là tiếng quạ kêu, bóng tối bao trùm trong căn nhà lụp xụp tối om và hơi thở nồng nặc của sự chết chóc. Trên cái nền ảm đạm của nạn đói là cảnh người chết đói dắt nhau đi, xác người ngổn ngang khắp cánh đồng. Bức ảnh khiến tất cả chúng tôi run lên vì sợ hãi và đau đớn.

Ta thấy trong hoàn cảnh ấy, mạng sống con người thật mong manh, đâu đâu cũng thấy dấu vết của cái chết, con người lúc nào cũng nơm nớp lo sợ cái chết, lưỡi liềm tử thần thực sự treo lơ lửng trên đầu. Bây giờ nó còn có thể loạng choạng đi tìm thức ăn, nhưng ngày mai có thể có xác chết nằm giữa đường. Trong tình huống đó, hiển nhiên người ta không thể suy nghĩ, hành động, nói năng… như trong những tình huống bình thường khác.

Đây là cách chúng tôi nhìn thấy vợ mình “nhặt”, vì cô là nạn nhân của nạn đói đó. Theo quan điểm này, việc kén vợ nói trên không thể và không nên nhìn dưới góc độ đạo đức đánh giá nhân cách con người, hay nói cách khác cũng cần nhìn dưới góc độ nhân cách con người. cấp.

Tham Khảo Thêm:  Cảm nhận sự vô tình của con người khi hoàn cảnh thay đổi qua khổ thơ 3 bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Trước hết chúng ta đã thấy hậu quả khủng khiếp của nạn đói, nó chà đạp lên tính mạng, chà đạp lên tâm hồn con người, làm cho con người mất đi lòng tự trọng, phẩm giá của mình trong sự tồn tại. Thoạt nhìn, cô vợ nhặt có vẻ là một kẻ hay cằn nhằn, một mớ hỗn độn không có thiện cảm. Trong ứng xử hàng ngày, các bà, các cô đầy “sàm sỡ”, có câu: “Đạo, ông rẻ quá!”, “Hôm đó nằm xuống mất mặt quá”, “Ăn gì thì ăn, nhưng đừng ăn nhà giàu!”. nếu bạn bỏ vợ “nhặt” gây ra nạn đói khủng khiếp, và có lẽ, người đọc có thể thiếu sự đồng cảm với người vợ “nhặt”, Và có thể kết luận đây là một người phụ nữ thô lỗ, thô tục.

Nhưng câu hỏi ở đây chỉ là những câu chuyện về những con người bị mất nhân phẩm trong nạn đói, hay còn điều gì khác?với vợ “nhặt”, Trước hết, có thể thấy, hành vi gặp Tràng xin ăn rồi đi theo Tràng không phải là hành vi của một người vì đói mà mất đi lý trí, nhân phẩm. Không phải ngẫu nhiên mà vợ nhặt Bảo Trang: “Ha, ngon quá! Về phần cô ta, cảm thấy thiếu tiền thì bỏ cha đi!”

Câu nói ấy tất nhiên không chỉ là câu bày tỏ sự thương cảm, quan tâm đến Tràng, sự có mặt của từ “nàng” cho ta biết đó là câu hỏi: “Tràng có vợ chưa?”. Câu hỏi đã được chứng minh là có cơ sở, với câu trả lời của ông Trang: “Sao anh không cưới vợ đi. Đùa thế này mà anh về với em thì lên xe lấy hàng rồi mới về”.

“Bạn đang nói đùa?” Nhưng đó là sự thật! Hành động lập tức đi theo Tràng của người vợ cho ta thấy câu nói trên của chị rõ ràng hàm chứa niềm mong mỏi đằng sau câu hỏi. Nạn đói như nước lũ, vợ nhặt lật thuyền trong lũ, túm được Dong Li cây rơm cứu mạng! Đó là vấn đề của bản năng sinh tồn, hay như cách nói của TS Chu Văn Sơn: bản năng sinh tồn. Điều tất yếu là con người sẽ tìm mọi cách để tồn tại, cho dù nghịch cảnh có khắc nghiệt đến đâu. Người vợ đón máy bay trong trường hợp này cũng vậy, người đàn ông không theo kịp người đàn ông về làm vợ lại đón máy bay với giọng điệu của vợ, có những câu hỏi thăm dò chứ không phải vì thiếu lòng tự trọng mà vì bản năng muốn vươn lên. sống. Đó là một sự lựa chọn sinh tử, vì ranh giới có thể thoáng qua.

Tham Khảo Thêm:  Nghị luận: “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ và sáng tạo văn chương là nỗ lực tìm kiếm từ những phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”

“Con người là tổng hòa của những mặt đối lập”, trong sâu thẳm trái tim của vợ tôi “nhặt” Qua đoạn này ta cũng thấy được sự đối đầu, đấu tranh gay gắt giữa bản năng dục vọng và đạo làm người. Nếu thật trắng trợn đòi bát bánh của Tràng, sao trước khi ăn vợ Nhất lại nói:Thức ăn tuyệt vời! Ừ, ăn đi, sợ gì? ” Giả sử đó là phép lịch sự, khi được mời một món ăn, hãy nói một lần, “Ăn nó đi!” Chà, tại sao lặp lại nó hai lần, cộng với “Ừ, sợ cái gì?” Ai sợ?

Không chỉ lịch sự, mà còn có chức năng che đậy sự xấu hổ. “Một món ăn là một sự sỉ nhục. “, đặc biệt là khi họ xấu hổ khi ăn một cái gì đó, tại sao không làm điều đó. Nhưng ở đây không có sự lựa chọn, ăn hoặc chết, không xấu hổ. Hai câu đối trên đã có tác dụng xua tan nỗi tủi hổ trong lòng người vợ.

Thế là vợ “rước” về tủi hổ! Một người nhút nhát không thể là một người đã đánh mất hết lòng tự trọng. Ở đây, Kim Lan đã tinh tế cho người đọc thấy một khía cạnh về phẩm giá của người phụ nữ nhặt rác, đó là vẻ đẹp ẩn dưới vẻ ngoài âm ỉ buộc người phụ nữ nhặt rác phải mặc quần áo để sống sót qua nạn đói. Tự đứng dậy. Vẻ đẹp tiềm ẩn ấy càng thể hiện rõ ở những giai đoạn sau của tác phẩm, người vợ dần dần trút bỏ vẻ ngoài xấu xí, trở thành người vợ hiếu thảo, chăm lo chu đáo cho cuộc sống của Tràng. Nhân vật “không tên nhưng không vô nghĩa”, đóng vai trò là phần mở đầu. Đã mở ra một con đường tươi sáng cho cuộc đời Tràng.

Đối với nhân vật Tràng, ta thấy Kim Lân xây dựng nhân vật này rất thô sơ. Nhưng đằng sau vẻ ngoài khiêm tốn ấy là một trái tim chân thành và ấm áp. Khi vợ gắp lên, anh cũng thắc mắc: “Cơm em cầm, không biết có ăn được không mà anh còn đưa”, nhưng anh chỉ tặc lưỡi: “Chậc!” — —Đó là để đổi lấy hạnh phúc, chấp nhận đánh cuộc bằng cái chết trong trò chơi hạnh phúc. Người vợ mà tôi nhặt được – không đến với người khác, không lấy vợ, không lấy chồng nhưng Tràng không hề ghét cô ấy, ngược lại, “Hãy biết ơn những người phụ nữ xung quanh bạn”.

hai chữ cái “nhà của tôi” Tràng nhắc mẹ khi đưa vợ nhặt về, nghĩa là Tràng nghĩ vợ nhặt là vợ mình.Phải coi nhau như vợ chồng mới gọi nhau “nhà của tôi”, nhưng không chỉ coi nhau như vợ chồng mà còn có tình cảm sâu sắc, yêu thương nhau.hai giờ “nhà của tôi” Sao mà ân cần, tình cảm thế, đỡ tủi thân tủi nhục vợ mất hai tiếng đồng hồ đón tôi từ sân bay.

Tham Khảo Thêm:  Cách viết phần giải thích trong bài văn nghị luận xã hội

Bà Tư nhận ra khi gặp vợ “Bao nhiêu là lý do đau buồn”, “Người ta ăn thì lấy nhưng con…”, nhưng cô ấy đã dần nhận ra và chấp nhận cô ấy. cô ấy nói: “Ừ, tốt, các ngươi định mệnh sống cùng nhau, ta cũng vui vẻ.“. Có một sự đoán chừng trong cách xưng hô “con”-“ư”, tức là bà Du đã nhờ người vợ nhặt là Tràng về lấy ông. Sau khi người vợ nhặt Tràng là con gái -rể và cũng có thể gọi là co. Tuy nhiên câu này vẫn có chỗ chưa thống nhất. Chị, em hơi buồn, hình như là vậy “nhanh lên”, hạt “trở lại”.

Nhưng càng về sau, cảm giác miễn cưỡng dần biến mất, bà âu yếm nói với người vợ nhặt: “Ngồi đây, ngồi đây cho đỡ mỏi chân” (Xem ra vợ nhặt không còn là con dâu, nhưng trong mối quan hệ mật thiết này, trong mối quan hệ, tôi cảm thấy bà Tú coi cô ấy như con ruột của mình và yêu thương cô ấy như con ruột của mình), cô ấy bày tỏ sự đau buồn chân thành với hai đứa trẻ: “Bây giờ chúng ta kết hôn, và tôi xin lỗi.”

Các từ ngữ trong gia đình, nhà mình, u, con khẳng định sự thân thiết, tốt đẹp của tình cảm gia đình, thể hiện tình cảm yêu thương, gia đình. Từ đó ta thấy được tấm lòng nhân hậu, bao dung, khát khao được yêu và hạnh phúc của Đổng Lí và bà Từ.

Về tác phẩm “Người vợ tôi tìm thấy”, Kim Lan mong muốn: “Khi người ta viết về cái đói, người ta thường viết về cái nghèo và bi kịch. Khi viết về những con người trong một năm đói, người ta thường nghĩ về những người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn có suy nghĩ khác. Trong Phê bình Ở thời điểm này, những người này mặc dù cận kề cái chết, nhưng họ không nghĩ đến cái chết, họ vẫn hướng về cuộc sống, họ tràn đầy hy vọng và tin tưởng vào tương lai, họ vẫn còn sống, và họ sống vì con người. Có thể thấy, người đói không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống.

xác nhận: “Kẻ đói không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến sự sống” Thể hiện rõ nét ở tư tưởng, chủ đề, cảm hứng mà tác giả thể hiện qua các nhân vật của mình. Để khám phá tư tưởng này, chúng ta phải đi sâu vào lớp vỏ ngôn ngữ của văn bản. Thật vậy, tri thức công cụ của ngôn ngữ học đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu ý nghĩa ngôn ngữ của tác phẩm, từ đó trở thành cơ sở để người đọc đi sâu vào ẩn dụ và tư tưởng.

Related Posts

Nghị luận: Cái mất đáng tiếc là thời gian. Cái mất đáng lo là cơ hội. Cái mất đáng buồn là niềm tin. Cái mất đáng sợ là tình người

Mất mát đáng tiếc là thời gian. Lo lắng mất mát là cơ hội. Một mất mát đáng buồn là niềm tin. Mất mát ghê gớm là…

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp phong cách nhà Nho trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát….

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh.

Những lỗi thường bị trừ điểm trong bài làm văn của học sinh. I. Những lỗi thường gặp trong bài làm văn của học sinh. 1. Lỗi…

Những lưu ý khi tiến hành làm bài văn nghị luận.

Những lưu ý khi viết luận văn. 1. Trước khi lên lớp học sinh phải phân tích đề. – Chỉ định định dạng tiêu đề. – Xác…

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề.

Cách làm bài văn nghị luận văn học không bị lạc đề. A. Mở đầu. Trong khi làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học,…

Nghị luận: Thơ ca là cái đẹp đi tìm

tranh luận: thơ là vẻ đẹp được tìm kiếm. Một chuyên gia thẩm mỹ cho biết: Tất cả các thể chế chính trị đều qua đi, chỉ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *