Vai trò của dẫn chứng trong việc cấu tạo năng lực văn học của học sinh giỏi——Luyện thi học sinh giỏi môn văn
1. Dẫn chứng là một mắt xích quan trọng trong lập luận, thể hiện tư duy nhạy bén của tác giả.
Bản chất của văn bản tranh luận là cách tác giả sử dụng lập luận để thuyết phục người khác. Vì vậy, luận cứ và luận chứng phải liên quan chặt chẽ với nhau và đan xen nhau theo một quan điểm nhất định thì người đọc mới hiểu và tin vào vấn đề mà tác giả hướng tới. Với lớp văn hóa học sinh giỏi tư duy logic rõ ràng hơn. Vì vậy, lập luận phải có lí lẽ, dẫn chứng phải cụ thể, xác thực và người viết phải có khả năng trình bày, phân tích, đánh giá và nêu rõ mục đích của lập luận.
Hai thành phần quan trọng tạo nên quá trình lập luận là luận điểm và luận cứ. Một luận điểm thường là một tuyên bố, một điểm tóm tắt chủ đề của toàn bộ đoạn văn. Điều này kết thúc sự khẳng định và nhấn mạnh của lập luận. Lập luận là lý do và bằng chứng hỗ trợ cho một lập luận. Một lập luận sẽ cụ thể hóa thành những luận cứ hay lập luận có thể được rút ra từ những lý lẽ và dẫn chứng. Trong đó, lập luận bao gồm các lý lẽ và bằng chứng có liên quan chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. Quá trình suy nghĩ bình thường sẽ bắt đầu từ bằng chứng cụ thể, kết hợp các lập luận và sau đó hình thành luận điểm. Sau đó sắp xếp quá trình tư duy và chuẩn bị cho việc hình thành văn bản. Ngược lại, trong quá trình viết một bài văn nghị luận, tác giả thường nêu luận điểm trước, sau đó mới dùng lí lẽ để chứng minh. Dù luận điểm phát triển theo hướng nào thì luận điểm đều có chức năng nắm bắt luận cứ, và luận cứ là cơ sở, căn cứ để hình thành luận điểm.
Vì vậy, trong bài văn của học sinh giỏi, luận điểm, luận cứ càng chân thực, tiêu biểu, giàu tính liên kết logic với bài làm càng chặt chẽ thì càng phản ánh được năng lực lập luận của tác giả. Theo nghĩa này, độ sâu của lập luận tỷ lệ thuận với mức độ chứng minh của lập luận. Nghĩa là, lập luận chặt chẽ là lập luận thuyết phục và lập luận yếu là lập luận yếu.
Ví dụ:
Nguyễn Du, một nhà thơ lớn của dân tộc, đã viết “Hoa kiều” bằng cả trái tim và tâm hồn. Anh tan nát cõi lòng cho cô gái “lạc nghiệp ca hát” này, đồng thời xót xa cho nỗi đau cuộc đời của mối tình đầu. Duyên trao mà tình không dứt, đây là bi kịch tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng trong tác phẩm “Giữa Đường Vỡ”. Chàng cũng xót xa và tiếc nuối cho thân phận sống trong lầu xanh tủi nhục của nàng, hết sức cô đơn, không biết chia sẻ cùng ai, biết một mình, một mình hay một mình.
“Hạnh phúc là hạnh phúc, kẻo là
Ai biết giọng nói, Xian và ai”
Đó không chỉ là lời giải thích và cảm thán của Cuiqiao, mà còn là giọng nói xúc động của Ruan. Mạnh Liên Dương từng nói: “Khi Nguyễn Du viết “Hoa kiều”, máu trên đầu bút, nước mắt chảy dài trên trang giấy, người đọc vô cùng đau xót, như tan nát cõi lòng”. Hóa thân vào nhân vật như thế nào, đau lòng như thế nào, thương người như thế nào, cảm xúc tràn đầy như thế nào, Nguyễn Du mới có thể viết nên một bộ ” Kiều truyện” hay như vậy. (bài làm của học sinh)
Trong đoạn văn trên, những câu in đậm là câu lập luận. Các câu còn lại là các luận cứ được huy động để minh họa cho luận điểm. Lập luận đó có được đồng ý hay không phụ thuộc vào lập luận và bằng chứng tiếp theo. Cách trích dẫn là trích nguyên văn các câu thơ hoặc tổng hợp một số cảm xúc thơ tiêu biểu, đa dạng và linh hoạt. Tác giả đã khéo léo sử dụng những ví dụ điển hình để truyền tải bi kịch cuộc đời của Kiều tiểu thư và suy nghĩ của Nguyễn Du thông qua tác phẩm. cách lãnh đạo”không những … mà còn” Rất nhiều ví dụ được trích dẫn. Đồng thời, tác giả cũng kết thúc bằng câu nói của Mạnh Liên Dương, nhấn mạnh tính đúng đắn của luận điểm. Đây là cách viết có tiền đề và kết luận chặt chẽ.
Luận cứ chứng minh và hỗ trợ thường được trình bày kết hợp với nhau. Mối quan hệ giữa hai đối số là tương hỗ. Một lập luận được minh họa bằng bằng chứng, và ngược lại, bằng chứng chứng minh tính hợp lệ của một lập luận. Luận điểm được thể hiện dưới dạng các thao tác lập luận (diễn giải, chứng minh, phân tích…) và các quy luật logic (quan hệ tương phản, quan hệ nhân quả, hệ quả điều kiện,…). Dẫn chứng được trình bày theo nhiều cách: trích dẫn nguyên câu, trích dẫn cả đoạn văn hoặc đoản văn; trích dẫn nguyên văn, trích dẫn vài từ, tóm tắt ý chính. Lập luận và trình bày lập luận được kết hợp linh hoạt tạo nên tính xác đáng, chặt chẽ. Mỗi cách lập luận đều thể hiện ý thức tổ chức, lựa chọn và sắp xếp của tác giả. Nêu luận điểm giúp ích rất nhiều cho việc thể hiện ý đồ lập luận trong bài văn nghị luận.
2. Dẫn chứng về kiến thức văn học và thể văn tự do góp phần mở rộng phạm vi ý nghĩa của văn bản.
Dẫn chứng là sự tổng hợp, chắt lọc những hiểu biết của tác giả. Trong quá trình viết, nhà văn phải huy động và xử lý vốn tri thức này. Vì vậy, tri thức văn học càng sâu, dẫn chứng trong tác phẩm càng phong phú, mới mẻ, sâu sắc thì năng lực của người học văn càng được phản ánh.
Đối với học sinh giỏi, yêu cầu dẫn chứng phải rất phong phú thì các em mới chủ động, mạnh dạn, phóng khoáng trong bài viết. Ngược lại, dẫn chứng ít ỏi khiến bài viết trở nên khô khan, thiếu tính cụ thể để từ đó khái quát hóa luận cứ cho vấn đề đặt ra. Do kiến thức văn học hạn chế, tác giả ít chọn lọc nên dễ rơi vào hiểu lầm gượng ép dẫn chứng cho phù hợp với chủ đề bài viết, lập luận trở nên xa vời.
Ví dụ:
Chủ đề: “Nghệ thuật chỉ làm nên thơ, tâm hồn làm nên thi nhân” (André Chenyen). Anh (chị) hãy làm rõ nhận định trên qua tìm hiểu của mình về văn học trung đại.
Học sinh lấy những quan điểm khác nhau của các nhà văn nổi tiếng trong và ngoài nước, phương Đông và phương Tây làm dẫn chứng để định hướng, so sánh và khẳng định vấn đề một cách toàn diện hơn:
Nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn đã từng nói: “Việc viết quảng cáo cũng vậy, được và mất đều ở trong tâm trí”. Một ví dụ khác là nhà nhân đạo lớn Nguyễn Du cũng từng khẳng định: “Tâm thư hiếm có, một lòng bằng ba chữ”. Phải chăng, Lỗ Tấn và Nguyễn Du đều muốn khẳng định vai trò, tầm quan trọng của cảm xúc trong thơ. Và chúng ta cũng đã thấy sự giao thoa hài hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ phương Đông và nhà thơ phương Tây – Andre Chenyen “Nghệ thuật chỉ tạo nên thơ, còn trái tim tạo nên thi nhân”.(bài làm của học sinh)
Hiểu biết, các sinh viên đã tìm thấy điểm chung trong tâm hồn của một nghệ sĩ vượt thời gian không biên giới:
Tâm hồn nhà thơ là cửa ngõ để bước vào đời thực trong thơ. Từ sự trải nghiệm của tâm hồn, từ sự nhập thân của nhà thơ với cuộc đời, chính hương thơm của cuộc đời đã đáp ứng tâm hồn nhà thơ để sáng tạo nghệ thuật. Trên đỉnh ngọn đồi Odense huyền diệu với vòm thạch thảo tim tím thơ mộng, Andersen đã hái những hạt giống trên luống của ngư dân để dệt nên những bài ca bất hủ. Phù sa của dòng sông Mississippi ở miền Tây nước Mỹ đã bồi đắp, bồi đắp mãi mãi cho ngòi bút của Mark Twain. Cho đến tận bây giờ, cái nồng hậu mặn mà của người miền Tây vẫn còn ám ảnh chúng tôi, gợi cho chúng tôi nhớ về những con người phiêu lưu, mạo hiểm. Cả Hans Christian Andersen và Mark Twain đều giành được sự sống, họ yêu và gắn bó với cuộc đời để tạo nên những tác phẩm bất hủ. Nguyễn Du cũng vậy, ông bị xốn xang bởi xã hội đương thời, một xã hội đồng tiền hỗn loạn, bế tắc. Như Chế Lan Viên đã viết về thời Nguyễn Du trong bài “Quê hương chưa bao giờ đẹp thế”:
“Tổ tiên tôi đập tay trước cổng cuộc đời
Cửa vẫn đóng, đời im lìm
Tượng chùa Tây Phương không biết trả lời
Cả nước đang chết đói. “
Ví dụ: Khi phân tích sự tách biệt giữa “Tôi“Trong đoạn trích miền Bắc Việt Nam Tố Hữu, HS liên tưởng chia li trong ca dao, ở Câu chuyện Trung Quốc ở nước ngoàihãy xem tính dân tộc và giọng điệu riêng của Đỗ Hữu trong sự tách biệt với các nền văn học cách mạng khác:
Cuộc ra đi của người chiến sĩ cách mạng lập tức biến thành cuộc chinh phục của người vợ lẽ cũ, tình yêu như vợ lẽ của anh. Và đã tách ra rồi thì trong văn học, hình như có rất ít người không mượn hình ảnh khăn, áo. Từ lời bài hát:
“Áo thơm anh vắt ra
Đêm em nằm xuống thở dốc. “
Người đàn ôngNgay cả cuộc chia tay giữa bà Kiều và ông Thức hồi đó cũng là “người cưỡi ngựa, người tán”. Tuy nhiên, những chiếc áo trong thơ của Du Youshi vẫn mang tính cách tân. Không phải lư hương, không phải áo giầu mà là áo chàm. Nếu hiểu đơn giản là quốc sắc thiên hương thì đúng, nhưng nó làm giảm giá trị của thơ ca. Màu chàm là một màu không thể phai mờ và không bao giờ phai. Chúng ta mượn màu áo chàm để nói lên màu áo trung thành kiên trung của những người cách mạng – đó là cách đánh giá đúng đắn về lời thoại. Ngay cả cái nắm tay cũng quen lắm:
“Nói rồi lại nắm tay
Nếu bạn muốn tiến một bước, hãy dừng lại trong vài giây”
(người chinh phục ngấu nghiến)
“Bàn tay bị thương nhiều lần”
(các đồng chí)
Nhưng đối với tay Ahu, tình quân dân vẫn rất khăng khít. Và dấu chấm lửng – sự không trọng lượng mà đầy chất thơ, còn thể hiện “biết nói gì hôm nay” – nỗi lưu luyến, xao xuyến của những người đã quá quen thuộc vào giờ phút chia tay. Đó là sự chia cắt của Việt Nam.
Vì vậy, hãy biết sử dụng dẫn chứng để tạo nên sự liên kết và mở rộng hiệu quả, thể hiện vốn kiến thức văn học rộng và cố gắng phát huy kiến thức trong quá trình học văn.
Tóm lại, dẫn chứng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cấu thành năng lực văn học của học sinh giỏi. Sử dụng các ví dụ được sử dụng trong bài luận, chúng tôi sẽ đánh giá tư duy, kiến thức và kỹ năng viết của tác giả. Xét cho cùng, có thể sử dụng bằng chứng đó là thông qua quá trình lựa chọn bằng chứng có liên quan, phân tích bằng chứng một cách hiệu quả, liên kết các bằng chứng một cách phù hợp, tạo thành một vòng lặp hệ thống chung làm cơ sở lập luận và làm rõ các luận điểm trong văn bản. Vì vậy, khẳng định vai trò của dẫn chứng là khẳng định vai trò của kĩ năng phân tích và lựa chọn dẫn chứng trong văn học nói chung, đặc biệt là trong học văn của học sinh giỏi.