
Đặc điểm của văn xuôi văn học
– Các kiểu bài Nghị luận văn học Có hai kiểu bài cơ bản: nghị luận về tác phẩm văn học và nghị luận về tư tưởng văn học.
Nghị luận về tác phẩm văn học. Dạng đề này nhằm kiểm tra cảm thụ văn học của tác giả (tìm hiểu, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá,…). Đối tượng của tri giác có thể là một bài thơ/đoạn văn, một khía cạnh của bài thơ/đoạn văn, một câu chuyện, một vở kịch, một đoạn văn xuôi; có thể là toàn bộ tác phẩm hoặc một đoạn trích.
Ví dụ:
——”Tôi” trong “Running” của Xuandie.
– Cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
– Nghệ thuật thơ mới qua các câu thơ sau:
Hơn một bông hoa rơi khỏi cành
Trong vườn, đỏ và xanh
Rung động rung lá…
Đôi cành khô héo, khẳng khiu.
(Đây là mùa thu tới – Hoàng đế Xuân)
– Em có suy nghĩ gì về những đoạn văn sau:
Nhưng bây giờ anh đã tỉnh. Trông anh như vừa tỉnh dậy sau một cơn say dài. Cũng như người say, khi tỉnh dậy, miệng đắng chát, trong lòng mơ hồ buồn bã. Người gầy yếu, tay chân lười nhấc. Vẫn đói và uống? Anh hơi rùng mình khi nghĩ đến rượu. Bụng tôi hơi đau. Anh ta sợ rượu như bệnh nhân sợ thức ăn. Tiếng chim hót bên ngoài vui quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ, có những chiếc thuyền chài khua mái chèo bắt cá. Những giọng nói quen thuộc không có ở đó. Nhưng hôm nay anh nghe… Ôi, buồn làm sao!
(Nam Cao, Chí Phèo)
Nghị luận về cảm thụ văn học. Đối tượng bàn luận ở đây có thể là một nhận định về lịch sử văn học, nội dung của một tác phẩm, nghệ thuật; hoặc một quan điểm lý luận văn học.
Ví dụ:
– Những ấn tượng của văn học dân gian đối với văn học viết qua một số công trình nghiên cứu.
– Bạn hiểu thế nào về quan niệm của Bạch Thiện Nhân trong bức thư gửi Nguyễn Cửu: “Thơ lấy tình làm gốc, chữ làm ngọn, tiếng như hoa, nghĩa như quả”?
– Xin làm rõ nhận xét của Vũ Ngọc Phan về sự phát triển của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX: “Ở nước ta một năm bằng ba mươi năm đời người”.
– Nói về sự nghiệp của Xuân Diệu, Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “Nhìn chung, toàn bộ sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu cho thấy có một tư tưởng chi phối tất cả, đó là khát vọng đồng cảm với người đời – từ những gì thực nhất và chân thực nhất. cuộc sống trần tục hiểu theo nghĩa
– Trước Cách Mạng Tháng Tám 1945, Hoàng Xuân viết:
Làm thi sĩ là ngủ với gió
du lịch mặt trăng trong mơ
(Cảm thấy)
Sau cách mạng ông viết:
Tôi và người của tôi là bằng xương bằng thịt,
Cùng một giọt mồ hôi, cùng một dòng máu sôi,
tôi sống một cuộc đời chiến đấu
Được hàng triệu người yêu thích.
(đêm tháng ba)
Hãy bình luận về sự thay đổi quan điểm của Xuandie về mối quan hệ giữa nhà thơ và đời thực.
Nhà phê bình Belinsky đã viết: “Nếu một tác phẩm nghệ thuật vẽ nên cuộc sống vì mục đích của bức tranh, nếu nó không phải là tiếng kêu đau đớn hay niềm hân hoan, nếu nó không hỏi hoặc trả lời những câu hỏi này, thì nó đã chết.” (Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 1993, tr. 62)
Trong dạy học tiếng Trung ở trường phổ thông, đặc biệt là dạy các môn chuyên nghiệp và bồi dưỡng học sinh giỏi, bên cạnh việc trang bị kiến thức thì việc rèn năng lực lập luận văn học có vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học. Việc hình thành và rèn luyện năng lực nghị luận văn học của học sinh là một hình thức gợi ý phương pháp giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học, tìm hiểu các vấn đề văn học và đời sống, giải quyết nhu cầu thực tế của học sinh.
– Yêu cầu của bài văn nghị luận
Để làm một bài văn nghị luận cần chú ý những yêu cầu cơ bản về nội dung và hình thức:
+ Về nội dung tư tưởng, bài văn nghị luận cần đặt ra những vấn đề mới, sâu sắc, có ý nghĩa và thể hiện tư tưởng, lí tưởng nhân văn cao cả của nhân dân. Văn nghị luận cần có cảm xúc lớn để hình thành ngữ cảnh sâu sắc, không có cảm xúc lớn thì bài văn nghị luận sẽ nhàm chán, lập luận dù sắc bén cũng khó đi đến lòng người.
+ Văn nghị luận đòi hỏi sự chặt chẽ của lập luận, tính xác đáng của luận cứ, tính chính xác, tinh tế của lời văn; đáp ứng yêu cầu dễ hiểu phải lấy đề làm bài, lập luận sắc bén, chặt chẽ. , và nó cũng phải tác động đến cảm xúc của độc giả (khán giả).
+ Đảm bảo kiến thức mang màu sắc chính trị – xã hội: hiểu biết về chính trị – xã hội: hiểu biết về chính trị, pháp luật, kiến thức cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, tâm lý – xã hội…
+ Đảm bảo sự trong sáng về diễn đạt. Bố cục phải tự nhiên, linh hoạt, giản dị, nghiêm cấm dùng từ mới, từ chưa hiểu hoặc thêm từ lạ vào bố cục một cách không cần thiết.
+ Kỹ năng lựa chọn và sử dụng dẫn chứng: đó là việc huy động dẫn chứng, lựa chọn sự phong phú, đa dạng và sử dụng có hiệu quả các dẫn chứng. Kỹ năng trích dẫn: Yêu cầu trích dẫn chính xác; dẫn chứng phải đầy đủ trong phạm vi yêu cầu của tài liệu; dẫn chứng phải tiêu biểu, phù hợp và mới lạ. Chú ý tính hệ thống khi thu thập chứng cứ, sắp xếp theo trục thời gian tuyến tính, không gian từ xa đến gần…